This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Mắc quai bị khi nhỏ, hậu quả lớn khi trưởng thành

Đây là bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ 10-19 tuổi nên phụ huynh cần Quan tâm để con được điều trị đúng, tránh biến chứng vô sinh khi trưởng thành.

Nhận biết bệnh quai bị

Bệnh quai bị do Mumpsvirus, thuộc họ Pramisovirus gây ra. Bệnh thường kéo dài khoảng 10 ngày hoặc lâu hơn. Khi bị bệnh quai bị, người bệnh bị sưng lớn một bên má, lệch mặt như đeo bị, bên trên quai hàm. Sau vài ngày, bên má này giảm sưng thì có thể sưng to má bên kia. Do virut tấn công vào tuyến nước bọt. Đặc biệt, chỗ má sưng không hóa mủ (đây là dấu hiệu để phân biệt với viêm tuyến nước bọt). Bên cạnh đó, người bệnh có sốt cao 39-40 độ C (kéo dài 3-4 ngày), nhức đầu, đau trước tai, đau lúc nhai nuốt (kéo dài 2-3 ngày). Ngoài ra, với các trường hợp có triệu chứng không điển hình như trên, người bệnh tưởng nhầm là bệnh khác hoặc bỏ qua giai đoạn điều trị. Các thể không điển hình quai bị dẫn tới viêm tuyến nước bọt mang tai (không hóa mủ) chiếm 70%, thời gian mang bệnh có thể từ 18-21 ngày, viêm tinh hoàn (gặp tại người trưởng thành từ 10-30%), teo tinh hoàn (phải mất hai tháng sau khi bị bệnh mới biết rõ).Bệnh quai bị dễ gây biến chứng viêm, teo tinh hoàn.

Bệnh quai bị dễ gây biến chứng viêm, teo tinh hoàn.

Bệnh lây lan qua con đường nào?

Bệnh quai bị có thể gặp ở mọi lứa tuổi, trong đó trẻ em thường bị từ 10-19 tuổi, nam nhiều hơn nữ và ít gặp ở trẻ dưới hai tuổi. Bệnh có thể lây qua đường hô hấp, đường ăn uống, nói to, hắt hơi, qua giọt nước bọt nên dễ truyền cho người khác. Virut gây bệnh quai bị tồn ở trong nước tiểu 2-3 tuần và có nghi ngờ rằng bệnh có thể lây qua đường phân và nước tiểu.

Biến chứng viêm, teo tinh hoàn do quai bị

Bệnh quai bị có thể gây nhiều biến chứng cho người bệnh như viêm tụy, viêm não, viêm cơ tim, tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác, xuất huyết do giảm tiểu cầu... Ở phụ nữ có thể gây viêm buồng trứng, nếu có thai trong 3 tháng đầu bị quai bị dễ bị sẩy thai, sinh non, thai dị dạng, 3 tháng cuối dễ sinh non, thai lưu. Tuy nhiên, biến chứng thường gặp có thể gây vô sinh tại nam giới là tình trạng viêm, teo tinh hoàn. Bình thường, tại lứa tuổi trưởng thành, thể tích tinh hoàn từ 18-25ml nhưng lúc bị teo nhỏ, thể tích chỉ còn 8-10ml. Khám thấy mật độ tinh hoàn mềm, nhẽo, mào tinh hoàn nhỏ, mềm, thể tích 1 lần xuất tinh ít, tinh dịch loãng. Theo thống kê tại Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn thì 71,8% có teo tinh hoàn, trong đó có 57,3% teo tinh hoàn hai bên và 14,5% teo tinh hoàn 1 bên. Tất cả các trường hợp này đều có mật độ tinh hoàn mềm, nhẽo nên khả năng sinh tinh khó.

Để chẩn đoán xác định

Các trường hợp này đều được thực hiện siêu âm với hình ảnh kích thước tinh hoàn giảm, hình dạng bị biến đổi (không còn hình hạt đậu điển hình mà trở thành hình dẹt), đôi lúc có thể gặp những nốt vôi hóa của nhu mô tinh hoàn, nhu mô mào tinh, vôi hóa màng tinh hoàn... Bên cạnh đó, người bệnh còn được làm tinh dịch đồ và trong các trường hợp này đều thấy tinh trùng giảm cả thể tích, mật độ, số lượng, độ di động, tỉ lệ sống và hình dạng bình thường, nặng hơn có thể không tìm thấy tinh trùng trong tinh dịch. Với các trường hợp này, sẽ rất khó để có thể có con tự nhiên nên buộc phải tiến hành các biện pháp hỗ trợ sinh sản, trong đó trữ lạnh tinh trùng là một phương pháp hiệu quả nhằm mang lại hy vọng có con cho người bệnh.

Cách gì hạn chế biến chứng do quai bị?

Khi giai đoạn cấp của bệnh quai bị xảy ra, người bệnh tuyệt đối không đi lại mà nên nằm nghỉ ngơi tại giường, giảm thiểu đến những nơi tập trung đông người (trường học, siêu thị, xe bus...) để làm giảm tình trạng sưng đau và ngăn ngừa bệnh lây lan ra cộng đồng. Ngoài ra, người bệnh cần đến cửa hàng y tế khám để được điều trị đúng. Biện pháp điều trị bao gồm dùng thuốc kháng sinh, giảm đau, hạ sốt, chống phù nề, thuốc an thần, vitamin C và nhóm B để nâng cao cường thể lực. Đối với người bệnh, cần vệ sinh răng miệng sạch sẽ, đeo khẩu trang tránh lây nhiễm cho người khác, không uống rượu bia, ăn thực phẩm dễ tiêu hóa và không quan hệ tình dục trong thời gian bị bệnh (đối với bệnh nhân đã trưởng thành).

BSCKII. Nguyễn Khắc Lợi (Giám đốc Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn)

Hút thuốc thụ động liên quan với dị ứng thực phẩm ở trẻ

“Phơi nhiễm sớm với khói thuốc thụ động là nhân tố nguy cơ đã được biết gây bệnh hen, nhạy cảm thực phẩm và eczema tại trẻ. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xem xét về tác động của nó lên các triệu chứng liên quan tới thực phẩm tại trẻ”, đồng tác chất lượng kém nghiên cứu Anna Bergstrom thuộc Viện Karolinska tại Thụy Điển cho biết.

Trong nghiên cứu mới này, các tác chất lượng kém đã theo dõi sức khỏe của sắp 3.800 trẻ em Thụy Điển trong khoảng từ năm 1994 đến 1996. Những trẻ này được theo dõi tới lúc 16 tuổi. Nhóm nghiên cứu cũng khảo sát định kỳ cha mẹ của trẻ để xem liệu trẻ có các dấu hiệu dị ứng thực phẩm hay không. Trẻ cũng được kiểm tra để xem có phản ứng với một số loại kháng nguyên trong thực phẩm.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trẻ có cha mẹ hút thuốc khi chúng mới được 2 tháng tuổi dễ có các dấu hiệu dị ứng thực phẩm, đặc biệt là dị ứng trứng và lạc. Tuy nhiên, nghiên cứu này không chứng minh rằng phơi nhiễm khói thuốc thụ động trực tiếp gây dị ứng thực phẩm mà chỉ cho thấy mối liên quan giữa các yếu tố.

Nghiên cứu được trình bày tại hội nghị thường niên của Học viện Dị ứng, hen & miễn dịch Hoa Kỳ.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Chủ động ngừa thai để tránh những cái kết buồn!

Thống kê từ Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Hùng Vương TP.HCM - hai bệnh viện phụ sản lớn nhất khu vực phía Nam cho thấy, số lượng phụ nữ tới nạo phá thai những năm qua gần như không giảm. Năm 2015, Bệnh viện Từ Dũ tiếp nhận 28.692 ca phá thai, riêng sáu tháng đầu năm 2016, trung bình mỗi tháng có gần 2.400 ca tới bỏ thai, con số này ở Bệnh viện Hùng Vương là 1.200 ca.

Đau lòng những cái kết từ nạo phá thai

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam là nước có tỉ lệ phá thai cao nhất châu Á và là 1 trong 5 nước có tỉ lệ phá thai cao nhất trên thế giới. GS.BS.Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, Phó chủ tịch Hội phụ sản Việt Nam, Chủ tịch Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP.HCM, cảm thán: “Buồn quá là buồn!”.

Chia sẻ tại buổi tọa đàm cách đây không lâu dành cho báo giới đề tài “Giúp phụ nữ tiếp cận với phương pháp ngừa thai hiện đại” do Báo Phụ nữ TP.HCM và Bayer Việt Nam phối hợp tổ chức nhân chuỗi hoạt động hưởng ứng Ngày ngừa thai thế giới, GS.BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, cho biết: “Đáng báo động có tới 20% người nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên. Tổng tỉ suất phá thai là 2,5 - nghĩa là trung bình mỗi phụ nữ Việt Nam đã phải trải qua 2,5 lần phá thai trong cuộc đời sinh nở của mình. Đặc biệt, cứ 1 trong 4 ca phá thai là phá thai không an toàn, gây tàn tật tạm thời hoặc trong tương lai do các biến chứng. Phá thai không an toàn gây ra: 13% tử vong mẹ, và 20% gánh nặng nói chung do tử vong mẹ và tàn tật lâu dài”.

GS.BS Nguyen Thi Ngoc Phuong

GS.BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng nói rõ:

Điều quan trọng là từng chị em trong độ tuổi sinh sản cần chủ động kiếm tìm thông tin đáng tin cậy vào các biện pháp ngừa thai hiện có, hỗ trợ tư vấn với các bác sĩ, cán bộ y tế để tin tưởng lựa chọn biện pháp tránh thai phù hợp nhất cho mình”.

GS. Ngọc Phượng kể vừa khám cho 1 trường hợp bị dính buồng tử cung do nạo phá thai lúc còn quá trẻ. Đó là một phụ nữ sinh năm 1983 nhưng trước đó đã 4 lần nạo thai, nay không thể có con được dù các bác sĩ đã nỗ lực bằng nhiều cách như: nội soi đặt vòng chống dính, mổ tách dính… nhưng buồng tử cung và 2 vòi trứng vẫn dính chặt và có lẽ chỉ còn cách duy đặc biệt tìm người mang thai hộ. Có những trường hợp còn bi thảm hơn lúc chị em vì mặc cảm mà đi phá thai “chui” tại những cửa hàng không phép dẫn đến nhiễm trùng hoặc thủng tử cung, có khi may mắn còn giữ được sinh mạng nhưng nhiều trường hợp tử vong trong đau đớn. GS. Ngọc Phượng nhớ lại 1 trường hợp khi cô còn làm ở BV. Từ Dũ, 1 cô gái mới 18 tuổi có người yêu gần đám cưới nhưng có thai, cả 2 sợ quá đi phá ở nhà bà “mụ vườn”. Kết quả là cô gái được chuyển vào BV. Từ Dũ trong tình trạng mủ đầy ủ bụng. Các bác sĩ phải cắt tử cung nhưng vẫn không cứu được sinh mạng cô gái trẻ. Khi người nhà tức tưởi đi tìm mới hay con mình đang nằm trong nhà xác BV. Anh người yêu và bà mụ vườn sợ quá trốn biệt tăm.

Chủ động các biện pháp ngừa thai hiện đại

Mang thai là 1 trải nghiệm hoàn hảo chỉ khi người phụ nữ sẵn sàng cho thiên chức làm mẹ. Tuy nhiên, bên cạnh lý do có thai ngoài ý muốn ở trẻ vị thành niên thì nhiều chị em chưa sẵn sàng có con vì còn dở dang việc học, kinh tế khó khăn, công việc chưa ổn định hay không muốn sinh con thứ 3… đã “bất đắc dĩ” phải từ chối những thai nhi ngoài ý muốn. Rõ ràng, nhu cầu ngừa thai ở chị em rất cao nhưng cách ngừa thai bị động, ngại mua thuốc ngừa thai hoặc tránh thai không an toàn theo kiểu truyền thống như: xuất tinh ngoài âm đạo, canh chu kỳ kinh nguyệt… đã khiến mỗi phụ nữ Việt Nam trung bình phải trải qua 2,5 lần phá thai trong suốt độ tuổi sinh đẻ của mình và 20% các ca nạo phá thai rơi về lứa tuổi vị thành niên. Cứ 1 trong 4 ca phá thai là phá thai không an toàn, chiếm 13% ca tử vong mẹ. Phá thai không an toàn cũng để lại các biến chứng về thể chất và tâm lý tạm thời cũng như lâu dài. Mang thai là một trải nghiệm hoàn hảo chỉ khi người phụ nữ sẵn sàng cho thiên chức làm mẹ

Theo số liệu thống kê của Viện Guttmacher, hơn 1 nửa số phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở châu Á muốn tránh thai. Tuy nhiên 22% trong số này (tức 141 triệu người vào năm 2014), đang không sử dụng biện pháp ngừa thai hoặc ngừa thai theo các kiểu truyền thống, kém hiệu quả. Đây là những chị em có nhu cầu ngừa thai chưa được đáp ứng, chiếm 77% ca mang thai ngoài ý muốn tại châu Á. Nếu phụ nữ được tiếp cận với các biện pháp ngừa thai hiện đại thì tình trạng mang thai ngoài ý muốn sẽ giảm tới 67%, từ 44 triệu ca xuống còn 15 triệu ca mỗi năm và phá thai không an toàn sẽ giảm 73%, từ 9,7 triệu trường hợp xuống 2,6 triệu trường hợp. “Vì vậy, điều cần phải có là từng chị em trong độ tuổi sinh sản cần chủ động tìm kiếm thông tin đáng tin cậy về các biện pháp ngừa thai hiện có, hỗ trợ tư vấn với các bác sĩ, cán bộ y tế để chọn lựa biện pháp tránh thai thích hợp nhất cho mình”, GS. Ngọc Phượng nói rõ.

tranh thai

Ngoài ra, GS.BS. Ngọc Phượng cho rằng: “Các biện pháp ngừa thai hiện đại cho hiệu quả ngừa thai ngoài ý muốn cao, đơn cử các biện pháp phổ biến như: bao cao su nam 86 - 93%, vòng đồng 98 - 99%, thuốc viên tránh thai phối hợp 98 - 99% nếu như sử dụng đúng hướng dẫn… Thế nhưng, hiện vẫn còn những hiểu lầm khiến viên thuốc ngừa thai bị “hàm oan”, chẳng hạn như: uống thuốc ngừa thai bị vô sinh, đột quỵ, ung thư… Thực tế ngoài những ích lợi liên quan tới sinh sản như: ngừa thai; giảm có thai ngoài tử cung; thuốc viên tránh thai phối hợp còn đem lại những lợi ích vào kinh nguyệt như kinh nguyệt đều, giảm lượng máu mất nên giúp giảm thiếu máu thiếu sắt; giảm 50% nguy cơ ung thư nội mạc tử cung sau 12 chu kì; giảm 40% nguy cơ ung thư biểu mô buồng trứng; giảm 40% nguy cơ ung thư đại trực tràng. Còn nguy cơ mắc cục máu đông khi sử dụng thuốc ngừa thai là hiếm gặp và thấp hơn nguy cơ ở phụ nữ mang thai hay trong giai đoạn vài tuần sau sinh. Nguy cơ này sẽ thấp lúc dùng thuốc liên tục và kéo dài. Chị em cần tầm soát các yếu tố nguy cơ trước khi dùng thuốc tránh thai: trên 35 tuổi có kèm hút thuốc lá, béo phì, vừa trải qua đại phẫu, bất động lâu, sau khi sinh con, có tiền căn huyết khối…

“Những quan niệm sai lầm trên dễ khiến nhiều chị em quay vào với kiểu ngừa thai truyền thống có hiệu quả không cao so với các biện pháp hiện đại, và do vậy dễ xảy ra các trường hợp vỡ kế hoạch phải bỏ thai. Sự giải đáp chính xác và đầy đủ của xã hội (cán bộ y tế, truyền thông...) sẽ giúp phụ nữ có thể tiếp cận được phương pháp tránh thai phù hợp nhất”, GS. Ngọc Phượng nhấn mạnh.

ANH THƯ

Nguyên nhân gây khiến IVF thất bại nhiều lần?

Theo GS Nick Macklon, 1 giáo sư tại ĐH Southampton tại Anh, nhiều phụ nữ thực hiện IVF nhiều lần mà không thành công mặc dù có phôi chất lượng tốt, và cho đến nay vẫn chưa rõ niêm mạc tử cung có phải là nguyên nhân hay không.

Nghiên cứu này chỉ ra rằng có 1 tỷ lệ to những phụ nữ thất bại nhiều lần trong thủ thuật này có thể bị vô sinh do những trục trặc trong khả năng tiếp tiếp nhân của tử cung, và cơ hội để mang thai thành công là rất nhỏ. Thông tin này giúp các bác sĩ lâm sàng hiểu rõ hơn để hỗ trợ tư vấn cho bệnh nhân. Nghiên cứu sẽ giúp phụ nữ biết có nên tiếp tục sau lúc đã trải qua 1 vài lần IVF thất bại hay không. Ngoài ra, nghiên cứu cũng có thể dẫn tới phát triển một xét nghiệm mới để giúp bệnh nhân hiểu về khả năng đậu thai của mình trước khi Tiến hành quá trình điều trị.

Các nhà nghiên cứu đã sinh thiết niêm mạc tử cung của 43 phụ nữ mà IVF thất bại liên tục, xảy ra lúc chuyển phôi chất lượng rất tốt 3 lần trở lên hoặc đặt 10 trở lên phôi trong nhiều lần chuyển mà không đậu thai, và 72 phụ nữ sinh con thành công nhờ IVF.

Trong phân tích các mẫu sinh thiết, các nhà nghiên cứu tìm thấy một cấu hình gen bất thường ở niêm mạc tử cung của 80% phụ nữ chuyển phổi nhiều lần thất bại mà không tìm thấy chúng tại những phụ nữ điều trị IVF thành công.

BS Cẩm Tú

(Theo Health)

Những món ăn ngọt lịm, nóng hổi xua tan gió lạnh đầu mùa

Bánh trôi tàu

Bánh trôi tàu luôn có mặt trong danh sách những món phải thưởng thức khi mùa đông gõ cửa. Lý do à? Bởi nó nóng hôi hổi, thơm lừng, ấm sực mùi gừng, lại vô cùng ngọt ngào, toàn những thứ người ta cần để đánh tan cái lạnh tê tái của mùa đông.

Một chiều đông tan sở, bụng đang sôi sục, cơ thể đang co ro vì gió rét, bạn đừng ngại tạt một hàng bánh trôi tàu mà gọi cho mình 1 bát bánh, thưởng thức những viên bánh trôi mềm, thơm, có nhân dừa, nhân mè lại thêm chút cốt dừa, lạc béo bùi. Những miếng bánh làm từ bột nếp thơm mềm nhấp cùng thìa nước đường nâu ngọt lịm, ấm sực không chỉ ngon mà còn giúp bạn phấn chấn hơn hẳn.

Lục tàu xá

Người đơn giản thì bảo lục tào xá là chè đậu xanh phiên bản ăn nóng, nhưng người kĩ tính lại khó mà đồng tình với ý kiến này, dù đúng là thành phần chính của lục tàu xá cũng là đậu xanh, cũng có có đường, có bột báng để chè được sền sệt. Bởi trong thành phần của lục tàu xá nhất thiết cần có vỏ quýt khô. Vỏ quýt khô làm nên chất the thê rất riêng cho lục tàu xá mà nếu như thiếu đi, người ta chỉ còn cảm giác đang ăn 1 bát chè đậu xanh thông thường.

Trên nền vàng ươm điểm xuyết hạt trắng cửa bộ báng, chút nâu vàng của vỏ quýt khô trông vô cùng ngon mắt. Ngày lạnh co ro, ghé quán chè trong phố cổ, gọi 1 bát lục tàu xá nóng hổi, chầm chậm ăn từng miếng nhỏ để thấy vị bùi béo của đậu, vì ngọt của đường, vị the của vỏ quýt ngấm vào cơ thể, sưởi ấm từng tế bào đang run rẩy vì lạnh, mới thấy món ngon đâu cần phải là cao lương mĩ vị.

Chí mà phù

Nhắc đến bánh tôi tàu, lục tàu xá mà bỏ qua chí mà phù thì vô cùng thiếu sót bởi đây là bộ ba không thể tách rời nhau tại những hàng chè nóng. Với chí mà phù, nguyên liệu chính làm nên món này tất nhiên là vừng (mè) đen. Chỉ đơn thuần là vừng đen lựa hạt chắc đều đem xay nhuyễn đem nấu chung với đường, ngoài ra có thêm vị lá chanh để tạo mùi thơm. Vì đen xì nên loại chè nhìn không hấp dẫn nhưng khi ăn bạn sẽ cảm tiếp nhân được vị ngọt, béo, bùi vô cùng hấp dẫn. Chí mà phù thường được bán trong những chiếc bé bé để vừa ăn mà không ngán. Ngày lạnh được nhâm nhi bát chí mà phù nóng hổi béo bùi và ngắm những dòng người qua lại trên phố xá thì còn gì thú bằng.

Xôi chè nóng

Gần gũi với người Việt hơn cả là món xôi chè nóng với xôi vò ăn kèm các loại chè hoa cau, chè bà cốt, chè hạt sen hay chè đỗ đen đặc luôn nóng hổi vì được đun liu diu trên bếp. Chưa cần thưởng thức chỉ cần nhìn những bát chè được múc ra nóng hổi, còn tỏa khói rồi hít hà mùi thơm bạn đã khó “cầm lòng”.

Trong các loại chè này thì chè bà cốt là dậy mùi hơn cả. Hương gừng ấm nóng quyện về vị ngọt của đường đỏ hẳn sẽ làm bạn phải xuýt xoa trong những ngày se lạnh. Nếu chỉ đơn giản thích một món ngọt để ăn chơi, bạn có thể gọi chè ăn không, còn ví dụ chắc bụng, nên gọi thêm xôi vò. Những hạt xôi được chế biến cầu kỳ, thơm, bùi quyện cùng chè nóng ăn đến đâu, khoái khẩu tới đó quả là một món quà hoàn hảo cho mùa đông Bắc Bộ.

(Theo Tri thức trẻ)

Phòng tránh rôm sảy cho trẻ

Rôm sảy là do hiện tượng ứ đọng mồ hôi tại đầu những ống tiết mồ hôi trên mặt da, tạo thành những mụn nước rồi sẽ tự teo đi hoặc tự vỡ, để lại những điểm róc da nhỏ. Ta thường gọi là rôm “lặn”. Rôm nổi nhiều ở trán, cổ ngực, lưng. Khi ra nắng, trẻ bị rôm “cắn” rất ngứa ngáy, bứt rứt, khó chịu.

 Nên tắm rửa cho bé hàng ngày.
Mùa hè, thời tiết nóng bức, trẻ em thường bị rôm (có nơi gọi là sảy). Sau một vài trận mưa, không khí trở lại mát mẻ thì rôm sảy cũng dịu đi, hoặc “lặn” hết.

Rôm hay nổi nhiều tại những em bé ít được tắm rửa, mặc quần áo bí hơi, quấn tã lót quá nhiều.

Nhiều bà mẹ chưa có nhiều năm kinh nghiệm nuôi con, sợ con cảm lạnh, không dám cho ra gió, cả ngày đặt con trong màn, lại quấn quá nhiều tã lót, làm cho trẻ nổi đầy rôm.

Bản thân chất mồ hôi ứ đọng trên da hoặc không toát ra được sẽ kích thích da, gây ngứa ngáy, trẻ buộc phải gãi. Gãi nhiều, ví dụ tay bẩn hoặc da có không ít cát bụi, cáu ghét, các mụn rôm rất dễ bị nhiễm khuẩn, mưng mủ, nên “giết rôm” là một điều nên tránh. Có bà mẹ lúc thấy con bị rôm kéo theo 1 số mụn nhỏ có quầng đỏ xung quanh, đã vội mua ít thuốc mỡ penicillin hay sulfamid vào bôi cho con. Tưởng tương tự là tốt, thực ra thuốc mỡ có chất vaselin lại càng làm bít da, bí hơi, mồ hôi không thoát ra được khiến rôm thêm nặng, hơn nữa penicillin và chất sulfamid là những loại thuốc dễ gây phản ứng viêm da nổi mẩn đỏ, mụn nước, có khi thành loét, chảy nước, làm rôm thêm biến chứng.

Cho nên tuy rôm là hiện tượng thông thường nhưng nếu như xử trí không đúng phương pháp, bôi thuốc không phù hợp cũng dễ gây tai hại “cái sảy nảy cái ung” là thế!

Muốn tránh rôm sảy cho trẻ, mùa hè cần tắm rửa cho trẻ đều đặn, ít nhất mỗi ngày 1 lần (tắm nước mát). Quần áo phải thoáng, mỏng, cho trẻ chơi nơi mát, thoáng gió, không chơi đùa ngoài nắng, nhất là nắng trưa, xế chiều. Đối với trẻ mới đẻ, càng cần chú ý không nên vì sợ “gió máy” mà quấn quá nhiều tã lót, làm trở ngại cho sự hô hấp của da trẻ.

Khi em bé Tiến hành bị rôm, cần kịp thời xoa phấn rôm ngày 2-3 lần. Trong phấn rôm có bột tan, bột kẽm oxid có tác dụng thoáng da, hút hơi, lại có chất sát khuẩn, se da như acid botic, tanin thì càng tốt, vì có tác dụng ngăn ngừa nhiễm khuẩn da.

Xoa phấn rôm đều đặn, và nếu như có điều kiện, cho trẻ tại nơi thoáng mát, sẽ làm rôm lặn đi nhanh chóng. Tránh bôi thuốc mỡ làm bít da, bí hơi, hoặc thuốc khác dễ gây biến chứng hay dị ứng.

Mỗi tuần có thể tắm cho trẻ 2-3 lần bằng nước lá đào, mướp đắng, hoặc nước có pha ít thuốc tím loãng (1/10.000) lúc có ít nhiều mụn viêm tấy. Khi tắm cần hết sức nhẹ nhàng, không nên kỳ cọ quá mạnh, không nên chà xát bằng khăn mặt làm vỡ các mụn rôm còn “xanh” dễ gây nhiễm khuẩn mưng mủ.

“Giết rôm” là một thói quen không hợp vệ sinh và dễ làm cho da bị nhiễm khuẩn. Những em bé rôm nhiều, nên cho ăn các thức ăn mát như bột sắn dây, đậu đen, canh mồng tơi, rau má.

Hoàng liên.

Theo y học cổ truyền, rôm sảy là chỉ bề mặt da nổi nhiều nốt nhỏ mọng nước thường xuất hiện trong thời gian viêm nhiệt, thử nhiệt tại nơi có ôn độ cao, trẻ em thường hay gặp chứng này.

Rôm sảy cốt yếu là nổi nốt mọng đỏ, điều trị theo phép thanh lương, giải độc, cho xoa chu thị phi tử thủy. Nếu thấy rôm sảy nổi nốt mọng nước, điều trị nên trừ thấp thanh nhiệt, có thể dùng hà thị chỉ dương phấn rắc về nơi đau.

- Chu thị phi tử thủy: Sinh đại hoàng 30g, băng phiến 9g, bạch chỉ 9g, hoàng cầm 10g, hoàng liên 9g, cồn 75o 500ml.

Cách dùng: Ngâm thuốc vào cồn 7 ngày, lọc bỏ bã, lúc sử dụng lấy nước này mà bôi lên chỗ rôm sảy.

- Hà thị chỉ dương phấn: Hoạt thạch phấn 30g, bột hàn thủy thạch 9g, bột băng phiến 24g.

Cách dùng: Tán bột mịn, rắc lên nơi rôm sảy.

 

Lương y Vũ Quốc Trung

Hoạt động ngoài trời có lợi cho mắt của trẻ em

Theo một nghiên cứu của các nhà khoa học Australia, những trẻ em thích hoạt động ngoài trời ít có nguy cơ bị mắc chứng cận thị.
Nghiên cứu này được thực hiện với hai nhóm trẻ, đều dành trung bình hơn 2,8 giờ/ngày cho các hoạt động ngoài trời, gồm hơn 1.700 trẻ 6 tuổi và hơn 2.300 trẻ 12 tuổi. Trong hai nhóm trẻ này chỉ có 1,5% trẻ em 6 tuổi bị cận thị trong khi tỷ lệ này tại những trẻ em 12 tuổi là 12,8%.
 

Riêng đối với những trẻ 12 tuổi, những em thích các hoạt động ngoài trời ít có nguy cơ bị cận thị so với những trẻ mà phần to thời gian chỉ tại trong nhà.
Nguy cơ này ở những trẻ chơi bên ngoài nhà dưới 1,6 giờ/ngày và tham dự các hoạt động đòi hỏi phải nhìn gần hơn 3,1 giờ/ngày tăng từ gấp đôi đến gấp 3 lần, so với những trẻ em dành phần lớn thời gian cho các hoạt động ngoài trời và dành ít thời gian nhất cho những hoạt động đòi hỏi phải nhìn sắp như đọc sách hoặc học bài.
Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng khuyến cáo rằng các bậc cha mẹ phải bảo đảm rằng con em mình có đội mũ và đeo kính râm lúc ở ngoài trời nắng.Theo TTXVN

Bạn có thể tự làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung

Đức Hạnh

Mỗi năm trên thế giới có khoảng nửa triệu phụ nữ tử vong vì ung thư cơ quan sinh dục; 1 trong những thủ phạm chính là ung thư tử cung. Đây là loại ung thư thường gặp ở phụ nữ, đứng hạng thứ hai trên thế giới sau ung thư vú. Tại TP. Hồ Chí Minh ung thư cổ tử cung chiếm gần 27% trong tổng số các loại ung thư. Tuy nhiên, bệnh này có thể chẩn đoán sớm và điều trị tốt ví dụ bạn đều đặn đi khám định kỳ.

Nếu đi khám định kỳ đều đặn và tránh các nhân tố nguy cơ nói trên, bạn sẽ tự làm giảm khả năng mắc bệnh của mình

Ung thư tử cung được chia làm hai loại: Ung thư thân tử cung và ung thư cổ tử cung. Nếu bị tại cả 2 phòng đó thì gọi là ung thư tử cung. Bệnh thường gặp ở phụ nữ tuổi 50-60, hiếm gặp tại phụ nữ không sinh hoạt tình dục.

Nguyên nhân gây bệnh chưa thật rõ ràng. Người ta thấy bệnh ung thư cổ tử cung liên quan đến những kích thích từ bên ngoài như sinh hoạt tình dục sớm, sinh nở nhiều lần, nạo phá thai nhiều lần, nhiễm các bệnh lây qua đường tình dục. Các nghiên cứu đều cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh cao tại những phụ nữ tảo hôn và sinh con quá sớm (trước 18 tuổi). Đặc biệt tại gái mại dâm, phụ nữ tái hôn trên 3 lần và phụ nữ bị viêm loét cổ tử cung, nguy cơ ung thư sẽ cao gấp 7 lần so với người bình thường. Một yếu tố khác liên quan tới ung thư cổ tử cung là sinh hoạt tình dục sớm lúc cổ tử cung chưa phục hồi hoàn toàn (sau khi hành kinh, đẻ, sảy, nạo hút thai, đặt vòng, tháo vòng).

Ung thư cổ tử cung thường liên quan tới các nhân tố nội tiết và bệnh toàn thân như: vô sinh, vô kinh, không rụng trứng, kinh nguyệt bất thường, quá béo, nâng cao huyết áp, đái tháo đường... Các tình trạng trên làm chức năng của buồng trứng mất điều hoà, dẫn đến nâng cao tiết estrogen - nguyên do dẫn đến ung thư thân tử cung.

Triệu chứng sớm của ung thư tử cung thường nghèo nàn. Chủ yếu người bệnh thấy ra máu bất thường ngoài kỳ kinh, rối loạn kinh nguyệt và tiền sử kinh nguyệt ra nhiều, khí hư lẫn máu... Nếu không định kỳ khám phụ khoa và làm các xét nghiệm chẩn đoán sớm thì thường không nhận ra bệnh tại giai đoạn sớm.

Giai đoạn đầu, thường không có triệu chứng gì rõ rệt. Có thể là 1 lở loét nhẹ lúc nhìn qua mỏ vịt.

Bệnh tiến triển theo 3 hình dạng đại thể khác nhau:

Dạng chồi (sùi): mọc lòi về kênh âm đạo, đôi lúc bị bội nhiễm và hoại tử.

Dạng thâm nhiễm (ăn cứng): xuất phát từ kênh tử cung và hướng đến ăn cứng toàn thể cổ tử cung.

Dạng loét: hủy hoại cấu trúc cổ tử cung và sớm ăn lan về túi cùng âm đạo.

Tuy nhiên, nếu như đi khám định kỳ đều đặn và tránh các yếu tố nguy cơ nói trên, bạn sẽ tự làm giảm khả năng mắc bệnh của mình và nếu như có thì bệnh cũng được phát hiện sớm, điều trị kịp thời. Như vậy kết quả điều trị sẽ đạt kết quả rất tốt hơn.

(Đức Hạnh)

Ngăn ngừa bệnh phụ khoa

Nếu như trước đây, đối tượng mắc bệnh phụ khoa chủ yếu là các phụ nữ đã có gia đình, thì nay tỷ lệ này đang gia nâng cao tại các thiếu nữ chưa từng quan hệ tình dục.

 

Ngay cả lúc có những biểu hiện như: Ra nhiều khí hư bất thường, ngứa, rát âm hộ; khí hư có mùi hôi, màu sắc khác thường thì chỉ có một số bạn gái đi khám hoặc hỏi ý kiến mẹ hoặc chị gái, còn đa phần các em chỉ rửa bằng nước sạch, 1 số còn sử dụng xà bông để rửa vùng kín, một số lại tự thụt rửa sâu âm đạo khi không có chỉ định của thầy thuốc. .. Đó chính là nguyên do gây bệnh viêm nhiễm phụ khoa tại các em gái chưa quan hệ tình dục.

Hậu quả của bệnh viêm nhiễm phụ khoa

Chứng viêm nhiễm đường sinh dục có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, gây xáo trộn trong sinh hoạt cá nhân, với cảm giác nóng rát, khó chịu. Một số trường hợp do điều trị muộn hoặc không chín xác cách sẽ để lại di chứng như: teo hẹp vòi trứng, gây vô sinh ... Với người đang mang thai có thể dẫn tới sẩy thai hoặc đẻ non.

Phòng và điều trị bệnh viêm nhiễm phụ khoa

Khác với các phụ nữ, việc điều trị bệnh viêm nhiễm phụ khoa tại những bạn gái chưa từng quan hệ tình dục thường gặp khó khăn trong việc đặt thuốc âm đạo, cũng như các thủ thuật khác. Bên cạnh đó, do tâm lý e ngại nên nhiều bạn gái không đi khám mà thường tự điều trị dẫn đến tình trạng viêm nhiễm càng nặng và dễ chuyển sang mạn tính. Do vậy lúc gặp các dấu hiệu như: Ra nhiều khí hư bất thường; Ngứa, đau rát, có mụn lở loét tại vùng âm hộ - âm đạo... các bạn gái nên tới đi khám tại các địa chỉ y tế.

Hiện nay, trên thị trường có đa số loại sản phẩm rửa phụ khoa, không những thế bạn đọc gái nên đọc kỹ thành phần, tác dụng để tin tưởng lựa chọn cho mình một sản phẩm có thành phần tự nhiên an toàn, phù hợp.

a

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Vy, Chủ tịch hội Sản phụ khoa & Sinh đẻ có kế hoạch Việt Nam: "Thực hiện vệ sinh cá nhân, vệ sinh vùng kín là cách rất tốt nhất để phòng tránh bệnh viêm nhiễm phụ khoa".

- Tắm rửa thường xuyên (nhất là trong thời kỳ kinh nguyệt), vệ sinh âm hộ hàng ngày, lau khô bằng khăn sạch.

- Luôn luôn giữ cho bộ phận sinh dục ngoài khô, sạch, không dùng những dụng cụ, khăn, vật lạ đưa về trong âm đạo để lau âm đạo, âm hộ vì bất cứ lý do nào.

- Tránh mặc quần chật, quần ẩm ướt, không nên mặc đồ lót bó sát, nên mặc quần lót chất liệu cotton, thay quần lót thường xuyên.

- Băng vệ sinh phải đảm bảo sạch, đủ thấm và còn thời gian sử dụng qui định 4-6 giờ cần thay 1 lần.

- Không nên dùng nước bẩn có chứa nhiều vi sinh vật, nước thải như nước ao hồ, kênh rạch để tắm rửa.

- Không nên sử dụng xà bông hay các chất tẩy rửa mạnh, chất kháng khuẩn để vệ sinh vùng kín.

- Không tự thụt rửa âm đạo lúc không có chỉ định của bác sĩ điều trị.

a

Hà Anh

(Hà Anh)

Ngừa suy dinh dưỡng cho trẻ bằng sữa mẹ

Gần 1 tháng trở lại đây, khi mà xã hội và nhất là những người đang nuôi con nhỏ đang hoang mang lúc trong sữa và các sản phẩm từ sữa có melamin, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người tiêu dùng. Nhiều bà mẹ đang nuôi con bằng sữa hộp, đặc biệt là trẻ đó quen sử dụng sữa thật khó khăn khi phải đưa ra quyết định chọn lựa sữa nào cho trẻ ăn mặc dù không phải sữa nào cũng có melamin. Qua những sự cố sữa melamin, chúng ta mới thực sự thấy nuôi con bằng sữa mẹ, duy trì và bảo vệ nguồn sữa cho trẻ là 1 nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

 Tốt nhất cho trẻ bú kéo dài tới 2 tuổi để bộ phận tránh suy dinh dưỡng cho trẻ.

Vì sao sữa mẹ là thức ăn rất tốt nhất cho trẻ em nhất là trẻ sơ sinh?

Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, phù hợp nhất đối với trẻ, vì trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ phù hợp cho sự hấp thu và phát triển cơ thể trẻ. Bú mẹ, trẻ sẽ to nhanh, phòng được suy dinh dưỡng.

Sữa mẹ chứa nhiều chất kháng khuẩn, nâng cao cường sức đề kháng cho trẻ, chống các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn. Trong sữa mẹ có những yếu tố bảo vệ cơ thể trẻ mà không một thức ăn nào có thể thay thế được. Do tác dụng kháng khuẩn của sữa mẹ nên trẻ được bú sữa mẹ sẽ ít mắc bệnh.

Trẻ bú mẹ ít bị dị ứng, eczema như ăn sữa bò.

Cho con bú sữa mẹ sẽ tiện dụng và kinh tế vì không phụ thuộc vào giờ giấc, không cần được đun nấu, dụng cụ pha chế. Trẻ bú sữa mẹ sẽ kinh tế hơn nhiều, vì sữa mẹ không mất tiền mua. Khi người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh thần thoả thích sẽ có đủ sữa cho con bú.

Nuôi con bằng sữa mẹ có điều kiện gắn bó mẹ con, người mẹ có không ít thời gian gần gũi tự nhiên, đó là yếu tố tâm lý cần thiết giúp cho việc phát triển hài hòa của đứa trẻ.

Cho con bú góp phần giảm thiểu sinh đẻ và giảm tỷ lệ ung thư vú.

Cách cho con bú

Nhiều bà mẹ sau khi sinh chỉ thường cho con bú lúc căng sữa, người ta thường quen gọi là xuống sữa, tương tự là không đúng, càng làm sữa xuống chậm và dễ bị mất sữa. Tốt nhất, ngay sau khi sinh trong vòng nửa giờ đầu, người mẹ nên cho trẻ bú. Bú càng sớm càng tốt. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa sớm. Trẻ được bú sữa non sẽ bộ phận bệnh được tốt. Trẻ bú có tác dụng co hồi tử cung và cầm máu cho người mẹ sau đẻ.

Số lần cho trẻ bú không gò bó theo giờ giấc mà tùy thuộc về yêu cầu của trẻ. Ban đêm vẫn có thể cho trẻ bú nếu trẻ khóc đòi ăn. Ở những bà mẹ ít sữa, nên cho trẻ bú nhiều để kích thích bài tiết sữa tốt hơn.

Khi cho trẻ bú, người mẹ ở tư thế thoải mái, có thể nằm hoặc ngồi cho bú, để toàn thân trẻ sát vào người mẹ: miệng trẻ ngậm sâu vào quầng đen bao quanh núm vú để động tác bú được tốt hơn. Thời gian cho bú tùy theo đứa trẻ. Cho trẻ bú tới lúc trẻ no, tự rời vú mẹ. Sau lúc bú xong một bên nếu như trẻ chưa đủ no thì chuyển sang vú bên kia.

Cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Khi trẻ bị bệnh, ngay cả khi trẻ bị tiêu chảy, vẫn tiếp tục cho trẻ bú. Trẻ đẻ non yếu không bú mẹ được, hoặc trường hợp mẹ bị ốm nặng, bị mắc 1 số bệnh không cho trẻ bú được, cần vắt sữa cho trẻ ăn bằng cốc.

Nên cho trẻ bú kéo dài 24 tháng hoặc có thể lâu hơn, không cai sữa cho trẻ trước 12 tháng.

Khi cai sữa cho trẻ cần chú ý:

Không cai sữa quá sớm, khi chưa đủ thức ăn thay thế hoàn toàn sữa mẹ.

Không nên cai sữa về mùa hè nóng nực, trẻ kém ăn.

Không nên cai sữa đột ngột dễ gây sang chấn tinh thần làm trẻ quấy khóc, biếng ăn.

Không cai sữa khi trẻ bị ốm, đặc biệt khi bị tiêu chảy vì thức ăn thay thế trẻ chưa thích nghi được càng làm rối loạn tiêu hóa, dễ gây hậu quả suy dinh dưỡng.

Sau lúc cai sữa, cần có các chính sách ăn thay thế đảm bảo đủ chất cho trẻ, đặc biệt chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, đậu đỗ...), chất béo (dầu, mỡ) và các loại rau, quả...

Bảo vệ nguồn sữa mẹ

Muốn có sữa cho con bú thì người mẹ ngay trong thời kỳ có thai cần phải ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, có chính sách nghỉ ngơi, lao động hợp lý, tinh thần thoải mái, giúp người mẹ tăng cân tốt (10-12kg), đó là nguồn dự trữ mỡ để sản xuất sữa sau khi sinh.

Khi cho con bú, điều trước hết cần phải quan tâm là người mẹ cần phải ăn đủ, uống đủ, ngủ đẫy giấc. Khẩu phần ăn cần cao hơn mức bình thường. Hằng ngày ăn thêm vài bát cơm, một ít thịt, cá, trứng hoặc một ít rau đậu. Nên ăn thêm quả chín để có đủ vitamin. Các món ăn cổ truyền như cháo chân giò gạo nếp, ý dĩ hoặc vừng rang muối giã nhỏ ăn với xôi có tác dụng kích thích bài tiết sữa. Nên hạn chế các thức ăn gia vị như ớt, hành, tỏi vì nó qua sữa gây mùi khó chịu, trẻ dễ bỏ bú.

Khi cho con bú, nên giảm thiểu dùng thuốc vì một số thuốc có thể qua sữa gây ngộ độc cho trẻ và làm giảm tiết sữa.

Người mẹ cho con bú nên uống nhiều nước nhất là cháo, nước quả, sữa... (mỗi ngày khoảng 1,5-2,0 lít).

Vì sữa mẹ được tiết theo cơ chế phản xạ, do vậy tinh thần của người mẹ phải thoải mái, tự tin tránh những căng thẳng, buồn phiền, lo âu, mất ngủ. Chế độ lao động nghỉ ngơi sau lúc sinh đẻ có ảnh hưởng đến bài tiết sữa.

Để phòng chống suy dinh dưỡng và bộ phận chống bệnh cho trẻ, các bà mẹ cần thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ.

BS. Nguyễn Văn Tiến

(BS. Nguyễn Văn Tiến)

Hoàn thiện hệ tiêu hóa của bé yêu

Trẻ nhỏ có hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện nên cần được ăn uống thế nào cho đúng cách. Hãy bổ sung kiến thức sau đây để chăm sóc bé tốt hơn.

Là phụ nữ, ai cũng hạnh phúc vô bờ khi được sắp có tiếng khóc chào đời của đứa con. Thiên chức làm mẹ khiến họ chăm sóc từng chút một cho bé yêu. Chỉ cần 1 "sự cố" lạ, dù rất nhỏ đối với bé cũng khiến người mẹ lo lắng.

Hệ tiêu hóa của trẻ chưa hoàn thiện. Do đó, những triệu chứng đầy hơi, táo bón, ăn về là ói ra, tiêu chảy, ăn khó tiêu... thường xảy ra. Nếu biết cách, người mẹ có thể trở nên "bác sĩ gia đình" để giúp hoàn thiện hệ tiêu hóa non nớt của bé.

Khi Tiến hành sử dụng sữa bột hoặc cháo, hệ tiêu hóa của bé chưa thích ứng kịp nên phát sinh 1 số rắc rối.

Vì sao bé bị rối loạn tiêu hóa?

tao1.jpg
Cho bé ăn nhiều trái cây (cam, đu đủ, thanh long...), rau quả để bổ sung chất xơ, tập cho bé thói quen đại nhân tiện đúng giờ, không để bé nhịn đi tiêu

Theo thống kê ở Viện dinh dưỡng, ngày càng nhiều trẻ từ một tới 3 tuổi bị rối loạn tiêu hóa được khám và điều trị ở bệnh viện. Nhiều trẻ gặp tình trạng này kéo dài, dẫn tới giảm khả năng miễn dịch và suy dinh dưỡng.

Nguyên nhân mấu chốt dẫn tới rối loạn tiêu hóa tại trẻ là hệ vi sinh bị mất cân bằng trong đường ruột, các men vi sinh hữu ích hoạt động không bình thường.

Trong các triệu chứng rối loạn tiêu hóa, táo bón xảy ra phổ biến nhất và khiến các bà mẹ "đau đầu" nhất.

Có người hỏi: "Bác sĩ ơi, cháu bón quá, hai ba ngày mới đi tiêu một lần, phải làm sao?". Bác sĩ hỏi ra mới biết "sản phẩm" của cháu vẫn tốt, không sao cả. Thì ra, đây là bà mẹ quá kỹ tính, nghĩ rằng người lớn đi tiêu mỗi ngày nên bé cũng phải thế.

Đó là trường hợp nhầm tưởng. Tuy nhiên, chuyện trẻ bị táo bón thật sự diễn ra rất phổ biến do đường tiêu hóa chưa ổn định. Cụ thể, bệnh này chiếm 10% tại toàn bộ các trẻ em và 1,5 - 7,5% trẻ ở độ tuổi đến trường.

Giải mã triệu chứng táo bón

Một đứa trẻ có khoảng thời gian đi đại luôn thể cách nhau quá 3 ngày, phân ít, cứng và khô mới bị coi là táo bón.

Táo bón có thể do thói quen ăn uống, tập quán, tâm lý. Do giờ giấc ăn uống, nhu cầu đại luôn thể của trẻ rơi vào ban đêm, bé ngủ say nên "quên" luôn "việc ấy". Đến sáng, các hoạt động vui chơi cuốn hút lại khiến kéo dài khoảng cách đi tiêu của bé.

Phân nằm lâu trong ruột bị hấp thu mất nước phát triển thành cứng hơn, khiến bé, đau khi đi đại tiện, sợ nên không dám rặn. Lâu dần thành phản xạ khiến bé càng sợ đi đại luôn thể hơn. Rất ít trường hợp trẻ táo bón do bệnh lý.

Tìm 1 giải pháp tốt nhất

Khi con bị táo bón, thức ăn hay cụ thể là sữa công thức chính là "thủ phạm" trước tiên mà các mẹ nghĩ đến.

Có trường hợp, bà mẹ nghe "đồn" trong sữa có hàm lượng sắt cao nên gây táo bón tại trẻ. Điều đó không chín xác vì sắt là dưỡng chất rất cần thiết với cơ thể, tham dự vào hệ tạo máu, tăng cường hệ miễn dịch, giúp bé phát triển não bộ.

Thiếu sắt sẽ dẫn tới thiếu máu, làm giảm chỉ số thông minh, giảm khả năng tư duy, sáng tạo, kết quả học tập kém, sức đề kháng kém.

Trẻ dưới 1 tuổi và trẻ nhỏ dù chỉ bị thiếu máu nhẹ vẫn ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ. Với các loại sữa uy tín, các bà mẹ an tâm hơn về hàm lượng sắt vì các nhà khoa học đã tính toán hợp lý với độ tuổi của bé.

Nếu pha loãng quá, bé ăn không đủ lượng cần thiết, phân bé ít, cứng, lâu ngày mới "đi" thành bón. Pha đặc quá, thiếu nước lại càng bón. Cơ cấu bữa ăn thiếu chất xơ cũng gây táo bón. Các bà mẹ không nên vội vàng đưa con đến bác sĩ lúc 2-3 ngày chưa thấy con đi đại tiện. Việc này có thể khắc phục bằng cách điều chỉnh cách pha sữa cho đúng.

Ngoài ra, các bà mẹ có thể massage bụng cho trẻ một cách nhẹ nhàng để kích thích nhu động ruột, cho bé ăn nhiều trái cây (cam, đu đủ, thanh long...), rau quả để bổ sung chất xơ, tập cho bé thói quen đại tiện thể đúng giờ, không để bé nhịn đi tiêu. Tắm nước ấm và cho bé uống đủ nước cũng giúp bé đi tiêu đều đặn.

Khi chọn sữa, bố mẹ nên chọn các hãng sữa có bằng chứng khoa học về tác dụng tốt cho sự phát triển cả về trí tuệ và thể chất của bé.

Bố mẹ không nên đổi sữa đột ngột cho bé, không kịp thích nghi, bé sẽ bị táo bón. Khi đổi sữa, người mẹ nên đổi dần bằng cách cho bé ăn xen kẽ một ít sữa mới cùng với sữa cũ, giảm lượng sữa cũ dần đến lúc thay thế hoàn toàn.

Nắm được các nguyên lý căn bản như vừa nêu, các bà mẹ thuận tiện giúp bé ổn định đường tiêu hóa. Chỉ khi con bị rối loạn tiêu hóa bệnh lý, người mẹ mới cần sự trợ giúp của bác sĩ.

Theo BS. Nguyễn Thị Hoatiepthi.gif

Thực đơn tết cho phụ nữ mang thai

Một thực đơn ngày tết cho thai phụ vừa dễ chế biến, ăn ngon miệng mà còn cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho cả mẹ và con, rất giản một thể mà chất lượng lại kỳ diệu tới tuyệt vời. Tùy chọn lựa trảo đổi trong các bữa ăn trong các bữa ăn trong ngày Tết sao cho nhân thể lợi mà nâng cao thêm phần vui vẻ, giữa khí xuân ấm áp, tràn đầy niềm vui...

Cá lóc chưng tương

Nguyên liệu gồm: cá lóc 1.000g, đậu tương hạt 50g, gừng củ tươi nửa củ, đường một thìa cà phê, dầu ăn, hành lá lượng vừa đủ chế biến.

Cách chế biến, sử dụng: cá lóc xát muối làm sạch, gừng gọt bỏ vỏ thái sợi, tương hạt pha với nước đường, toàn bộ cho vào hấp cách thủy chừng 30 phút, cho hành lá phi với dầu ăn lên trên, mang ra ăn với cơm. Đây là món ăn khá hấp dẫn, món cá lóc chưng tương vừa thơm ngon lại bổ dưỡng. Trong món này, cá lóc vừa giàu đạm, ít mỡ lại phối hợp với đậu tương làm nâng cao hứng thú ăn cho thai phụ. Là loại đậu chứa nhiều albumin, leucithin, sắt, canxi, vitamin B1, B2, acidnicotic... nếu liên tục ăn đậu tương hay uống sữa đậu nành hằng ngày sẽ làm cho da dẻ nõn nà, tinh lực dồi dào, hình thể khỏe, đẹp.

Cocktail dâu

Nguyên liệu gồm: yaourt 2 hủ, ổi chín hai quả, cam một quả, dâu đỏ 5 quả, nho 10 quả.

Cách chế biến, sử dụng: rửa sạch, gọt bỏ vỏ ổi, thái miếng; cam, nho, bóc bỏ vỏ và hạt; dâu đỏ rửa sạch để ráo nước. Sau cùng cho ổi, cam, nho, dâu trộn đều cùng yaourt cho về tủ lạnh hoặc có thể ăn ngay cũng được. Đây là món ăn vừa ngon mát, bồi bổ cơ thể bởi nhiều thành phần hợp lại như: thịt quả nho có thể dưỡng thân, nâng cao sức khỏe, bổ máu, trợ tim, lợi tiểu, có thể trị đau lưng, trợ - trị đau dạ dày, huyết hư, tim nhịp nhanh, mạnh... Người ta còn lấy quả nho 20g, sắc uống hai lần trong ngày để trị phụ nữ mang thai bị tức ngực, đứng ngồi không yên. Còn ổi giàu vitamin C giúp tăng cường sức đề kháng. Đặc biệt lại có quả dâu bổ gan, thận nên người ta đã dùng ăn quả dâu để trị bệnh gan, thận mãn tính, chống táo bón...

Còn cam là loại giàu vitamin C chống các phần tử gốc tự do, chống oxy hóa, lại tác dụng kiện tỳ, hòa vị, ấm phổi, trị ho, tẩm bổ cơ thể... Yaourt cũng là thứ bổ dưỡng có tác dụng bồi bổ cơ thể.

 Ảnh: corbis

Thịt lợn sốt cam

Nguyên liệu gồm: cam một quả, thịt lợn nạc thăn 200g, bột ngô 10g, cùng nõn hành lá ta, đường, nước mắm, dầu ăn vừa đủ.

Cách chế biến, sử dụng: cam rửa sạch để ráo nước, cắt ngang quả vắt kiệt nước, gạt bỏ hết hạt. Thịt nạc thăn có thể thái sợi hay thái miếng mỏng rồi ướp cùng chút nước mắm và nõn hành cắt khúc, chút đường. Khi bắc chảo lên bếp nổi lửa to, chảo nóng đổ dầu rán vào, cho nõn hành đã cắt khúc phi thơm thì thả thịt nạc thăn đã thái về chảo đảo đều nhanh tay, rồi cho ra đĩa. Còn bột ngô cho về nửa bát nước ăn cơm, thêm ít đường và nước mắm. Sau đó lại phi thơm nõn hành với dầu ăn và cho nước bột ngô, khuấy đều về chảo, đảo nhanh tay bột ngô khoảng hai phút thì bắc xuống, pha nước cam đã vắt sẵn.

Khi ăn rưới thêm nước thịt. Trong món ăn này ta thấy có thịt lợn nạc thăn là loại thịt ngon, mềm và có độ đạm cao lại lành tính và có tính lạnh, vị mặn đi về can, thận. Còn cam cũng là món ăn bổ dưỡng có vị ngọt, chua, chứa nhiều vitamin C có tác dụng làm tăng cường sức đề kháng của hệ miễn dịch trong cơ thể... Bột ngô cũng có vị ngọt, tính bình, nâng cao cường khả năng tiêu hóa cho dạ dày, ruột, lợi thủy, ngô rất giàu dinh dưỡng như đạm (chiếm từ 7-12%) và chứa nhiều vitamin hơn cả gạo, đặc biệt là vitamin E, vitamin nhóm B (B1, B2, B6) có lợi cho phụ nữ đang mang thai, chất lysine chiếm từ 1,8-4,45mg, triptophan 0,4- 1,0%... Hoặc hành cũng là vị thuốc có tính ấm, vị cay, thông dương, lợi khí…

Giò nóng khía mè đen

Nguyên liệu gồm: thịt giò lợn 100g, mè đen (vừng đen, hắc chi ma), nấm tuyết hai tai, bún tàu 1 lọn, nước mắm và đường trắng mỗi thứ nửa thìa cà phê, cùng với hành lá, tỏi, dầu ăn vừa đủ.

Cách chế biến, sử dụng: giò lợn (chân giò lợn) rửa sạch cho ướp với nước mắm, đường, hành lá cắt khúc, xắt nhuyễn. Nấm tuyết, bún tàu ngâm nước cho nở mềm. Bắc bếp đặt chảo chờ nóng cho dầu ăn về phi thơm hành, tỏi. Sau đó, cho giò lợn cùng mè đen vào chiên vàng. Đổ ngập nước, hạ lửa nhỏ riu riu trong khoảng 30 phút thì cho nấm tuyết và bún tàu vào. Tắt bếp, bắc ra ăn nóng rất thơm ngon.

Đây là món ăn khá tuyệt và rất giàu dinh dưỡng. Mặt khác lại có vị mè đen hợp cùng là loại có vị ngọt, tính bình, về kinh can, thận. Trong mè đen có protein chiếm từ 20-22% cùng nhiều khoáng chất, các nhân tố vi lượng, vitamin E, acid folic, vitamin PP, chất leucithin… lại tác dụng hữu ích tinh huyết, nhuận táo, hoạt trường, giảm kích thích, chống viêm... thì thật là phù hợp cho người đang mang thai. Ngoài ra, nấm tuyết cũng có vị ngọt, tính bình, tác dụng nâng cao khả năng miễn dịch trong cơ thể, bộ phận trị bệnh ung thư...

Gà hầm tam thất

Nguyên liệu gồm: thịt gà 200g, tam thất 4g, câu kỷ tử 3g, táo tàu 3 quả, gừng sống một củ, cùng các vị muối, tiêu, nước sử dụng vừa đủ.

Cách chế biến, sử dụng: rửa sạch thịt gà, ướp cùng tiêu, muối. Gừng gọt bỏ vỏ ngoài, thái sợi. Táo tàu, tam thất, câu kỷ tử rửa sạch. Sau đó lót cho gừng, tam thất, câu kỷ tử dưới đáy thố, đặt gà lên trên, đổ nước sử dụng ngập gà, cho vào nồi đổ vừa nước hấp cách thủy, đun nhỏ lửa trong 2 tiếng là được. Mang thố ra ăn cả cái, uống nước.

Xét các vị chính chứa trong món ăn này ta thấy, vị tam thất, phòng dược dụng là rễ củ khô, có tính ấm, vị ngọt hơi đắng, đi vào can, vị. Công năng của thuốc có thể thay nhân sâm (là loại đại bổ nguyên khí), còn sử dụng trong trường hợp chảy máu do thương tích ứ huyết, sưng đau, phụ nữ sau sinh bị xây xẩm chóng mặt (bổ khí huyết)... Còn thịt gà là loại giàu đạm (thịt gà nạc chiếm 25% đạm), song thịt gà có tính ấm, vị ngọt, công năng bổ hư ấm trong, trị mệt mỏi lâu ngày. Câu kỷ tử bộ phận dược dụng là quả chín phơi khô, tính bình, vị ngọt, về phế, can, thận, được dùng trong can, thận, âm hư, chân tay mỏi mệt... Vị táo tàu còn gọi là táo đen, táo đỏ, phần dược dụng là cùi thịt quả táo chín phơi khô hoặc sấy khô, có tác dụng tẩm bổ. Táo tàu tính ấm, vị ngọt, có công năng bổ tỳ, vị, nhuận tâm phế, điều hòa dinh vệ, lại hòa được cùng với bách dược... Hay gừng tươi, tính ấm, vị cay vào phế, vị, trị ngộ độc, đầy bụng...

BS. Hoàng Xuân Đại

(BS. Hoàng Xuân Đại)

Dinh dưỡng và sự phát triển não bộ ở trẻ em

Theo các chuyên gia về sức khỏe trên thế giới, muốn cho trẻ được khỏe mạnh và thông minh, thì bên cạnh các yếu tố như: di truyền, môi trường sống, phương pháp giáo dục... các bậc cha mẹ cần xây dựng cho trẻ một chế độ dinh dưỡng hợp lý, đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc phát triển trí tuệ và thể lực ở trẻ em. Chế độ dinh dưỡng phải bảo đảm các chất sau.

Sữa mẹ

Sữa mẹ là thực phẩm cơ bản của não. Nghiên cứu cho thấy, sữa mẹ mang lại những ích lợi tối đa cho sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Nó ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và là nguồn dinh dưỡng quí mức chi phí không gì có thể thay thế. Các nhà khoa học Đan Mạch khẳng định rằng, sữa mẹ giúp trẻ vừa khỏe mạnh hơn, vừa thông minh hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy, những đứa trẻ được bú mẹ trong chín tháng đầu đời sẽ thông minh hơn, so với trẻ không được bú mẹ hoặc bú mẹ trong vòng 1 tháng hay ít hơn.

 Ảnh: Gettyimages

Acid béo - omega 3

Một nghiên cứu được tuyên bố bố trên tạp chí Nhi khoa Hoa Kỳ (Journal of Pediatrics), đã chứng minh những lợi ích của acid béo quan trọng đối với sự phát triển của não bộ trẻ. Các nhà nghiên cứu đã cho trẻ sinh non uống sữa có acid béo cần thiết. Đến sáu tháng tuổi, những trẻ sinh non đó có những dấu hiệu cho thấy phát triển tốt hơn những trẻ sinh non không được uống sữa có acid béo cần thiết cho não. Có thể nói, không chỉ đóng 1 vai trò quan trọng đối với sự phát triển não bộ của trẻ trước lúc chào đời, mà acid béo omega 3 còn rất cấp thiết đối với não và sức khỏe tinh thần suốt cuộc đời con người.

Protein

Protein là chất kiểm soát sự hưng phấn cũng như là quy trình kiểm soát của các tế bào não. Nó đóng vai trò cần thiết trong việc hoạt động của não như: trí nhớ, ngôn ngữ, suy nghĩ, vận động, thần kinh dẫn truyền. Thực phẩm có chứa nhiều protein là: thịt nạc, trứng gà, các sản phẩm được làm từ đậu, cá, các loại sò...

Taurine

Taurine là acid amin. Taurine rất cần trong giai đoạn não và hệ thần kinh bộc phát từ khi còn là phôi cho tới hết tuổi lên 3. Động vật thiếu taurine có thể bị mù. Ở người, mắt bắt đầu có tổn thương nhưng bổ sung taurine thì trở lại bình thường.

Carbonhydrate

Carbonhydrate cũng có vai trò cần thiết trong việc phát triển trí não của trẻ.

Tuy nhiên, hàm lượng carbonhydrate có trong thực phẩm cũng đã đủ để mang đến cho nhu cầu cơ bản của cơ thể, không cần phải bổ sung quá nhiều. Đường nhiều quá sẽ làm cho não tại trong tình trạng mệt mỏi quá sức, dẫn đến suy nhược thần kinh hoặc là bị ức chế thần kinh. Các thực phẩm tốt nhất là: ngô, mì, gạo nếp, đường đỏ...

Vitamin và khoáng chất

Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc bổ sung các chất vitamin và khoáng chất với liều lượng thấp có thể làm tăng nhẹ chỉ số IQ của trẻ (2-3 điểm). Mức độ này có vẻ không có ý nghĩa gì với trẻ được nuôi duỡng rất tốt nhưng với trẻ có điều kiện ăn uống thiếu thốn, việc bổ sung một liều lượng như vậy có thể làm nâng cao chỉ số IQ lên tới 15 điểm.

Vitamin B1: là chất không thể thiếu cho sự phát triển của não và khả năng tư duy của con người.

Vitamin B2: đường glucose được dùng làm nguồn năng lượng cho não, lúc đường tiến hành nhiệm vụ thảo luận chất rất cần một lượng vitamin B2 rất lớn.

Vitamin B6: chính yếu liên quan tới quá trình thảo luận chất, có tác dụng bổ trợ cho các chất xúc tác trong não, có rất nhiều trong các loại cá, các loại hạt đậu, gạo chưa giã kỹ.

Vitamin B12: nếu như thiếu vitamin này sẽ dẫn tới thiếu máu, làm cho não không lấy được oxy và các chất dinh dưỡng. Vitamin B12 có không ít trong: gan bò, gan lợn, sữa tách bơ, con hàu, cá trích.

Vitamin A: ví dụ thiếu vitamin A, mắt sẽ không nhìn rõ. Vitamin A có không ít trong: gan gà, gan cá, lá tía tô, rau chân vịt, lá su hào, rau cải dầu, cà rốt, trứng gà.

Iod: thiếu iod nặng sẽ gây tình trạng chậm phát triển trí tuệ và việc thiếu iod nhẹ, thường diễn ra hơn, có thể ảnh hưởng tới việc học của trẻ.

Kẽm: trong não có chứa gần như dung môi và kẽm là thành phần cấu tạo nên các dung môi này, vì vậy nó có vai trò cần yếu đối với não. Kẽm có trong: đậu phụ, cá khô, con hàu, rau câu, thịt lợn, hạt đậu, nấm, sò biển...

Canxi: canxi đảm bảo cho huyết tương ở trong trạng thái tính kiềm yếu. Cơ thể đủ canxi thì sẽ giúp cho xương, răng phát triển tốt, kiểm soát sự ức chế khác thường của thần kinh. Thiếu canxi sẽ làm cho tính tình thô bạo, sức đề kháng kém, không tập trung, suy nghĩ chậm chạp. Thực phẩm có nhiều canxi là: sữa bò, hải đới, canh sườn, cá, rau sống, các sản phẩm làm từ đậu, tôm, các loại quả..

BS. Ngọc Anh (Theo Kidhealth)

(BS. Ngọc Anh)

Tiêm vaccin viêm gan B cho trẻ: Không thể trì hoãn

Những hiểu biết không đầy đủ vào các nguyên nhân gây tử vong ở trẻ sơ sinh và tính an toàn của vaccin chỉ cần khoảng qua đã ảnh hưởng tới tỷ lệ trẻ đi tiêm chủng, đặc biệt là đối với tỷ lệ tiêm vaccin viêm gan b, một trong những vaccin mới được đưa về bao phủ trên toàn quốc. Hậu quả của việc trì hoãn hoặc không cho trẻ tiêm vaccin này sẽ có ảnh hưởng hiểm nguy như thế nào? Phóng viên (PV) báo Sức khỏe & Đời sống đã có cuộc bàn bạc với TS. Trịnh Thị Ngọc - Trưởng Khoa truyễn nhiễm Bệnh viện Bạch Mai.

PV: Virut viêm gan B nguy hiểm tới sức khỏe cộng đồng như thế nào? Mức độ nhiễm virut này tại Việt Nam hiện tại ra sao, thưa TS?

TS. Trịnh Thị Ngọc 
TS. Trịnh Thị Ngọc: Theo những nghiên cứu điều tra mới nhất thì hiện tại tỷ lệ nhiễm virut viêm gan B (HBV) ở nước ta rất cao, từ 15- 20% dân số, thậm chí còn cao hơn và được xếp vào nhóm các quốc gia có tỷ lệ viêm gan B cao nhất thế giới. Những người nhiễm HBV đều có nguy cơ biến thành viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan và dẫn đến tử vong. Sự lây truyền xảy ra theo các con đường truyền máu, quan hệ tình dục và từ mẹ sang con. Tất cả mọi người có xét nghiệm HbsAg dương tính đều có khả năng lây truyền bệnh. Nhóm người có nguy cơ cao là tiêm chích ma túy, phải truyền máu nhiều lần, người có quan hệ tình dục không an toàn và trẻ sinh ra từ những phụ nữ có HBV. Những trẻ sơ sinh bị nhiễm HBV rất dễ bị viêm gan mạn tính, xơ gan hoặc ung thư gan nguyên phát và có tuổi thọ ngắn ngủi. Người ta ước tính có khoảng 15- 20% số người nhiễm HBV sẽ chết sớm vì xơ gan hoặc ung thư gan. HBV còn là nguyên do gây nên 80% các trường hợp ung thư gan trên thế giới.

PV: Theo TS biện pháp nào tốt nhất để phòng được căn bệnh này?

TS. Trịnh Thị Ngọc: Không có biện pháp bộ phận bệnh nào rất tốt hơn là tiêm phòng vaccin viêm gan B. Tại Việt Nam, việc đưa vaccin viêm gan B vào tiêm chủng thường xuyên cho trẻ là việc làm thật sự cần thiết, đáp ứng nhu cầu cấp thiết đối với căn bệnh này. Khi được bảo vệ bằng vaccin, trẻ em sinh ra từ những người mẹ có HBsAg cũng sẽ tránh được nguy cơ lây nhiễm từ mẹ. Khi dịch vụ y tế còn kém phát triển thì nguy cơ lây lan trong cộng đồng theo đường truyền máu, sử dụng chung bơm kim tiêm... làm cho bệnh lây nhiễm cao, nhưng hiện tại dịch vụ y tế đã được cố gắng đáng kể, bơm kim tiêm đều dùng 1 lần và kỹ thuật sát khuẩn được thực hiện tốt thì nguy cơ lây lan bệnh viêm gan B cốt yếu hiện tại là quan hệ tình dục, tiêm chích ma tuý và đặc biệt là từ mẹ sang con. Có những bệnh nhân còn ít tuổi chưa 1 lần phải tiêm, truyền, chưa có quan hệ tình dục nhưng xét nghiệm trong máu có dương tính với HbsAg, đây là hậu quả truyền bệnh từ người mẹ mà đứa con phải hứng chịu.

PV: Gần đây do hiểu biết không đầy đủ vào các ca phản ứng nặng diễn ra sau tiêm vaccin viêm gan B đã làm các bậc cha mẹ lo ngại không cho trẻ đi tiêm hoặc trì hoãn lịch tiêm, điều này sẽ tác động nguy hại tới sức khỏe của trẻ và cộng đồng ra sao?

TS. Trịnh Thị Ngọc: Tôi nhấn mạnh rằng vaccin viêm gan B là vaccin có tính an toàn cao nhất trong toàn bộ những vaccin đang được sử dụng trên thế giới. Rất đáng tiếc là sự thiếu hiểu biết của cộng đồng vào vaccin này cũng như những nguy cơ gây tử vong tại trẻ sơ sinh đã làm giảm sút tỉ lệ tiêm chủng thời gian qua. Trong khi đó, vaccin VGB mũi trước nhất được chỉ định tiêm trong 24 giờ sau sinh, trùng với thời điểm tử vong sơ sinh diễn ra cao nhất. Do đó ví dụ có phản ứng nặng xảy ra với những trẻ này người ta chỉ đổ lỗi cho tiêm chủng, mà sự thật ví dụ không tiêm thì nhiều trẻ sơ sinh vẫn có thể tử vong vì nhiều lý do khác. Nếu tình trạng này không được sớm giải quyết sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng và nền kinh tế, bởi vì lúc bệnh đã biến chứng sang xơ gan thì điều trị rất tốn kém mà hiệu quả không cao, tuổi thọ không kéo dài. Hơn nữa ví dụ không cho trẻ đi tiêm chủng nhiều bệnh tật đã thanh toán và loại trừ có nguy cơ quay trở lại, nhiều bệnh truyền nhiễm khác như viêm não Nhật Bản, sởi có dịp bùng phát mạnh mẽ. Trẻ em là người chịu thiệt thòi nặng nề nhất.

GS Beas Ley- một chuyên gia vào viêm gan B của Mỹ lúc sang Việt Nam đã khẳng định: muốn bộ phận bệnh cho trẻ có mẹ dương tính với virut thì phải tiêm ngay vaccin viêm gan B và kháng thể Hepabig vài phút sau khi sinh, ví dụ để sau vài giờ đã là quá muộn. Vì thế chúng ta không thể trì hoãn lịch tiêm cho trẻ, kể cả những trẻ sinh ra từ mẹ không bị nhiễm virut viêm gan B thì vẫn phải tiêm ngay sau lúc sinh mới có tác dụng phòng được bệnh.

PV: TS có lời khuyên như thế nào với cộng đồng trong việc tin tưởng lựa chọn bộ phận bệnh bằng vaccin này trước những vụ tai biến xảy ra sau tiêm chủng?

TS. Trịnh Thị Ngọc: Các bậc cha mẹ cần chọn lựa biện pháp tiêm chủng để phòng bệnh rất tốt nhất cho con mình, cần hiểu đầy đủ trị giá của vaccin viêm gan B. Trước những thông tin về phản ứng sau tiêm phải tìm hiểu nguyên nhân từ các cơ quan chức năng và cơ quan truyền thông tin cậy. Mỗi người mẹ, nhất là là những người đã nhiễm virut viêm gan B cần phải chia sẻ trách nhiệm với các nhân viên tiêm chủng khi họ tiêm bộ phận cho con mình, bởi duy nhất vaccin mới bảo vệ được con họ trước căn bệnh này.

PV: Xin cảm ơn TS!

Lê Hảo (thực hiện)

Bệnh lý võng mạc ở trẻ sinh non, nhẹ cân

Hầu hết các trẻ sinh non, nhẹ cân đều mắc bệnh lý về võng mạc. Nhìn bề ngoài, mắt của trẻ không có biểu hiện gì đặc biệt nhưng ví dụ không được khám sàng lọc trong vòng 3-4 tuần sau sinh thì trẻ có nguy cơ bị mù vĩnh viễn rất cao.

Có phải tất cả trẻ sinh non, nhẹ cân đều mắc bệnh võng mạc?

Bệnh võng mạc tại trẻ đẻ non là một bệnh lý thường gặp tại những trẻ đẻ non (tuổi thai khi sinh dưới hoặc bằng 34 tuần), nhẹ cân (từ dưới 2.000g). Nguyên nhân do trong quá trình phát triển của thai nhi, mạch máu ở võng mạc kể từ phần địa chỉ phía sau (đáy mắt) phát triển dần vào phía trước và kết thúc lúc thai đủ tháng. Đối với trẻ sinh non, quy trình này chưa hoàn thành nên rất dễ mắc bệnh lý võng mạc. Trong giai đoạn đầu, lúc mạch máu không phát triển sẽ hình thành đường ranh giới giữa các mạch máu phía sau và vùng vô mạch phía trước võng mạc. Dần dần đường ranh giới này dày lên, đến giai đoạn sau có hiện tượng tình trạng tăng sinh xơ, nâng cao sinh tân mạch, nếu không được phát hiện quy trình này sẽ nặng lên gây bóc màng võng mạc và trẻ sẽ bị mù, không thể điều trị được. Tuy nhiên, không phải tất cả các trẻ sinh non đều mắc bệnh lý vào võng mạc. Những trẻ sinh non nhưng sau khi sinh, nếu các mạch máu tiếp tục phát triển bình thường thì trẻ không mắc bệnh, trẻ chỉ mắc bệnh nếu các mạch máu phát triển 1 cách bất thường. Nhất là trẻ sinh non bị suy hô hấp, phải thở ôxy nhiều, trẻ bị viêm phổi hay thiếu máu thì càng dễ mắc bệnh và bệnh càng nặng.

 Khám sàng lọc bệnh lý võng mạc kịp thời giúp giảm biến chứng cho trẻ.
Bệnh lý võng mạc ở trẻ sinh non có điều trị khỏi hẳn không?

Hiện nay, tùy thuộc về tình trạng bệnh của võng mạc, có hai phương pháp điều trị chính yếu bằng lạnh đông và laser sẽ giúp trẻ sinh non tránh được nguy cơ mù cả 2 mắt. TS. Nguyễn Xuân Tịnh cũng cho biết, với sự hỗ trợ của Tổ chức Orbis- Hoa Kỳ thì mỗi năm tại nước ta đã khám sàng lọc cho khoảng 1.000 trẻ sinh non, nhẹ cân. Những trường hợp này lúc được điều trị bằng laser hay lạnh đông sẽ làm ngừng quá trình chất tiết tạo ra tân mạch làm cho xơ và tân mạch tiêu đi, không tiến triển sang giai đoạn bong võng mạc, giúp trẻ có thể nhìn thấy ánh sáng khi to lên. Thời gian điều trị tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh nhưng có thể kéo dài từ 30 phút tới 1-2 giờ đồng hồ. Sau lúc điều trị, nếu bệnh thoái triển thì trẻ chỉ cần theo dõi, ví dụ bệnh vẫn phát triển thì trẻ phải được điều trị bổ sung. Tỷ lệ điều trị thành công tới nay là 80%, 20% thất bại do bệnh quá nặng. Trên thế giới, những trường hợp bệnh nặng này có thể được điều trị bằng thuốc nhưng phương pháp này hiện chưa được sử dụng ở Việt Nam.

Làm thế nào để bộ phận bệnh võng mạc cho trẻ sinh non?

Nguyên nhân gây ra bệnh đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ nên biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất theo khuyến cáo của các bác sĩ là quản lý thai nghén thật tốt, cụ thể là chăm sóc dinh dưỡng đầy đủ, khám thai định kỳ nhằm hạn chế sinh non. Nếu lúc đã sinh non mà trẻ nhẹ cân thì được khám sàng lọc bệnh lý võng mạc kịp thời, không chủ quan khi thấy mắt trẻ có vẻ ngoài bình thường để tránh biến chứng nặng nề có thể xảy ra.

Hiện nay, việc sàng lọc bệnh võng mạc tại trẻ sinh non, nhẹ cân được thực hiện nay các đơn vị: Bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Mắt Trung ương, Bệnh viện Mắt – TP. Hồ Chí Minh,  Bệnh viện Phụ sản Hà Nội và hoàn toàn miễn phí.

Cách phát hiện bệnh lý võng mạcở trẻ sinh non

       Theo TS. Nguyễn Xuân Tịnh- người thực hiện khám sàng lọc bệnh lý võng mạc trẻ đẻ non trước tiên ở Việt Nam thì nhiều cháu bé được phát hiện bệnh lý võng mạc ở gia đình khi người nhà thấy mắt trẻ phản xạ kém với ánh sáng, nhưng những trường hợp này lúc đến khám ở chuyên khoa mắt thì bệnh đã ở giai đoạn muộn, mắt trẻ đã bị mù hoàn toàn, không thể can thiệp được. Do vậy, ngay cả lúc trẻ còn đang được điều trị trong khoa sơ sinh vẫn được khám để phát hiện bệnh bởi bệnh được phát hiện càng sớm thì các biện pháp điều trị càng đạt hiệu quả cao. Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ sử dụng những dụng cụ, trang thiết bị chuyên dụng để khám đáy mắt cho trẻ như soi đáy mắt gián tiêp... để phát hiện bệnh ở những giai đoạn khác nhau và có biện pháp điều trị thích hợp. Thông thường, nếu tại lần khám đầu tiên mà chưa thấy bệnh hoặc bệnh còn nhẹ thì trẻ sẽ được hẹn khám lại 2 tuần 1 lần cho đến khi trẻ được 40-42 tuần tuổi (tính từ ngày thụ thai) hoặc tới lúc các mạch máu tại võng mạc phát triển một cách đầy đủ. Nếu lúc khám mà thấy bệnh đã tại vào giai đoạn nặng hơn thì trẻ có thể sẽ phải được khám lại sau một tuần, thậm chí sau 2-3 ngày, có lúc cần phải được điều trị ngay.

Lê Thu Lương

Sán máng

Sán máng và trứng sán ký sinh và gây tổn thương tại ruột, gan, phổi, tim, não, thận, bàng quang... có lúc gây tử vong. Trẻ em bị nhiễm sán là 1 nguyên nhân gây suy dinh dưỡng và chậm lớn. Sán xâm nhập cơ thể qua da lúc người hoạt động dưới nước. Hiểu biết chu trình của sán có thể phòng tránh bệnh hiệu quả.

Tìm hiểu về sán máng gây bệnh

 Một số loại sán máng.
Có ba loại sán máng gây bệnh chủ yếu: S.mamsoni gây bệnh ở đường ruột; S.haematobium  gây bệnh sán máng bàng quang; S.japonicum gây bệnh sán máng đường ruột châu Á. Một số loài sán máng ở súc vật đôi khi gây bệnh cho người: Schitosoma intercalatum; Schitosoma mekongi ở lưu vực sông Mê Kông như Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. 

Động vật có vú và người là ổ bệnh chính của các loại sán máng. Chu trình gây bệnh của sán như sau: tại người, sán trưởng thành ký sinh tại đoạn ruột cuối hay tại bàng quang. Trứng sán thải theo phân và nước tiểu ra môi trường, khi gặp nước ngọt nở ra ấu trùng. Ấu trùng xâm nhập về vật chủ trung gian là ốc rồi phát triển thành vĩ ấu trùng ra khỏi ốc về nước; từ nước vĩ ấu trùng  xâm nhập qua da về cơ thể người. Sau khi xâm nhập, vĩ ấu trùng phát triển thành ấu trùng đi về gan, nơi chúng nhanh nhất trưởng thành. Sau vài tuần, sán trưởng thành cặp đôi giao phối rồi di chuyển tới các tĩnh mạch cuối của các tĩnh mạch cửa, nơi sán cái đẻ trứng. Từ đây, một số trứng đi vào lòng ruột hoặc bàng quang và được thải ra ngoài theo phân hoặc nước tiểu. Số trứng khác bị mắc lại trong thành ruột hay thành bàng quang. Trong khi vẫn có một số trứng theo máu đến gan, phổi và ít hơn đến các cơ quan khác của cơ thể.

Các biểu hiện lâm sàng

- Viêm da do vĩ ấu trùng. Sau khi vĩ ấu trùng xâm nhập, gây ra các triệu chứng nổi mẩn đỏ, ngứa, ban xuất huyết tại chỗ, ban dát và sẩn kéo dài tới 5 ngày. Hầu hết các ca bệnh viêm da này có hiện tượng tại vùng nước ngọt hoặc nước lợ trên toàn thế giới, do sự xâm nhập của ấu trùng sán máng của chim, nhưng loại sán này không phát triển tới giai đoạn trưởng thành tại người và không gây các triệu chứng nội tạng.

- Bệnh sán máng cấp tính hay sốt Katayama. Hội chứng này cốt yếu là phản ứng quá mẫn với sán máng đang phát triển, có thể xuất hiện với ba loài sán nhưng hiếm gặp với S.haematobium. Bệnh tiến triển từ nhẹ cho tới rất nặng, có thể gây tử vong. Thời kỳ ủ bệnh kéo dài 2 - 7 tuần, sau đó biểu hiện sốt, mệt, mẩn đỏ, tiêu chảy có thể lẫn máu, đau cơ, ho khan. Xét nghiệm thấy nâng cao bạch cầu, trong đó bạch cầu ái toan nâng cao cao, gan và lách có thể lớn trong 1 thời gian ngắn, tại giai đoạn sớm xét nghiệm phân có thể âm tính nên cần xét nghiệm lại nhiều lần trong ít nhất 6 tháng. Bệnh nhân sẽ trở lại không có triệu chứng trong hai - 8 tuần.

- Bệnh sán máng mạn tính. Khoảng 6 tháng đến vài năm sau lúc nhiễm bệnh, bệnh nhân có hiện tượng các triệu chứng: tiêu chảy, đau bụng, đi ngoài thất thường, phân lẫn máu, gan lớn và chắc, lách to. Bệnh tiến triển chậm trong 5 - 15 năm hoặc lâu hơn, các biểu hiện gồm: chán ăn, gầy sút, mệt mỏi, u ruột dạng polyp và các dấu hiệu nâng cao áp lực tĩnh mạch cửa và mạch phổi; viêm cầu thận... Nếu nhiễm S.haematobium các triệu chứng sớm của tổn thương hệ tiết niệu là đái rắt và đái buốt, đái máu cuối bãi và protein niệu. Hậu quả có thể hình thành các polyp trong bàng quang, viêm bàng quang, nhiễm khuẩn salmonella mạn tính, viêm đài thận, bể thận, sỏi thận, ứ nước thận, tắc niệu quản, suy thận và tử vong. Hiếm gặp hơn là tổn thương nặng ở gan, phổi, sinh dục hoặc thần kinh, ung thư bàng quang có liên quan đến nhiễm sán máng bàng quang.

        Trên toàn cầu có trên 200 triệu người mắc bệnh sán máng, trong đó 20 triệu người tổn thương nặng mỗi năm và trên 200.000 người tử vong. Tuy phần to người mắc có biểu hiện bệnh nhẹ và không có triệu chứng, nhưng vẫn có khoảng 50-60% có biểu hiện lâm sàng và 5-10% có tổn thương nội tạng nặng.

- Các biến chứng khác. Sán trưởng thành và trứng sán gây tổn thương các ổ loét sùi, u hạt, tổ chức xơ  ở thành ruột, thành bàng quang. Trứng sán trong gan gây xơ rìa tĩnh mạch cửa, nâng cao áp lực tĩnh mạch cửa loại trước xoang, nghẽn mạch do trứng, viêm nội mạch, tăng áp lực mạch phổi, bệnh tim phổi. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa dẫn đến xơ gan, lách to. Giảm các dòng tế bào máu, giãn tĩnh mạch thực quản và chảy máu tĩnh mạch. Suy giảm chức năng gan, vàng da, cổ trướng và hôn mê gan là các biểu hiện của giai đoạn cuối. Các biến chứng tại đại tràng: hẹp đại tràng, các ổ sùi u hạt và nhiễm salmonella kéo dài; polyp đại tràng với biểu hiện: tiêu chảy phân lẫn máu, thiếu máu, giảm albumin máu, ngón tay dùi trống. Viêm tủy cắt ngang, động kinh, viêm thần kinh thị giác có thể gặp do trứng sán trong hệ tuần hoàn hoặc sán lạc chỗ.

Bệnh sán máng đường ruột giai đoạn đầu có thể nhầm với lỵ amip, lỵ trực khuẩn hoặc các căn nguyên gây tiêu chảy và lỵ khác. Ở giai đoạn muộn cần phân biệt 1 số căn nguyên gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa và polyp ruột. Trong vùng dịch tễ, nhiễm sán máng bàng quang cần phân biệt với căn nguyên gây triệu chứng tiết niệu như ung thư đường niệu, nhiễm khuẩn, sỏi...

Các phương pháp điều trị

- Nội khoa: Được chỉ định lúc xác định có trứng sán còn sống. Do các thuốc có tính an toàn và hiệu quả nên có thể điều trị tất cả các thể bệnh hoạt động bằng thuốc uống. Có thể dùng một trong các thuốc: praziquantel; oxamniquin; metrifonat. Sau điều trị, cần xét nghiệm định kỳ để theo dõi từ 3 tháng - 1 năm xem bệnh nhân có còn thải trứng sán nữa không.

- Ngoại khoa: Điều trị ngoại khoa có thể được chỉ định để cắt bỏ các polyp và sửa chữa tắc nghẽn đường niệu. Trường hợp chảy máu do giãn tĩnh mạch thực quản, điều trị nitơ lỏng là phương pháp lựa chọn. Cắt lách nếu bệnh nhân bị giảm tất cả các dòng tế bào máu.

Phòng bệnh 

Để phòng bệnh cần thực hiện các biện pháp: điều trị sớm và tích cực cho bệnh nhân để tránh lây lan cho cộng đồng. Ở các vùng dịch tễ, điều trị đại trà cho trẻ em có tác dụng giảm nguy cơ phát triển các tổn thương nặng tại các cơ quan nội tạng. Khi hoạt động dưới nước cần đeo xà cạp chân, tay để tránh bị vĩ ấu trùng xâm nhập. Tuyên truyền cho mọi người và trẻ em không nên tắm sông, suối, ao, hồ hoặc ngâm mình lâu dưới nước. Không bón phân tươi và nước tiểu.

BS. Phạm Văn Thân

Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ bị sốt nhiễm khuẩn

Khi trẻ bị bệnh nhiễm khuẩn, ngoài việc điều trị bằng thuốc nếu cần, thì việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ đúng rất quan trọng, sẽ giúp trẻ mau khỏi bệnh và mau chóng hồi phục.

Các bệnh nhiễm khuẩn thường làm nặng nề hơn các khiếu nại của suy dinh dưỡng (SDD). Thường hay gặp tại những trẻ SDD và là tình trạng SDD nặng hơn, gây nên 1 vòng xoắn bệnh lý. Những bệnh nhiễm khuẩn thường gặp ở trẻ nhỏ là viêm nhiễm đường hô hấp, viêm tai giữa, tiêu chảy (riêng phần chế độ ăn trong bệnh tiêu chảy sẽ giới thiệu trong bài khác) vì vậy trong bài này tập trung giới thiệu vào nguyên tắc chung chăm sóc và nuôi dưỡng lúc trẻ bị bệnh nhiễm khuẩn có sốt.

Những nhân tố nguy cơ làm trẻ dễ bị mắc bệnh nhiễm khuẩn:

 Ô nhiễm môi trường do khói bếp than là 1 trong những nguyên nhân dẫn tới các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp ở trẻ.

- Nhóm dễ mắc các nguy cơ cao nhất của nhiễm khuẩn và các biến chứng của nhiễm khuẩn là trẻ sơ sinh nuôi dưỡng kém và trẻ nhỏ trước tuổi đến trường. Trẻ sơ sinh nuôi dưỡng kém, bao gồm cả trẻ đẻ non, đẻ thấp cân (cân nặng khi đẻ dưới 2.500g) nhất là dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn nhất là nhiễm khuẩn đường hô hấp và đường tiêu hóa và khi bị thường nặng và dễ tử vong.

- SDD: trẻ bị SDD thì khả năng miễn dịch kém nên dễ bị mắc bệnh và lúc mắc thường nặng, dễ biến chứng và thời gian bị bệnh kéo dài. Khi bị các bệnh nhiễm khuẩn thì lại làm cho tình trạng SDD nặng thêm. Vì vậy, việc bộ phận chống SDD và các bệnh nhiễm khuẩn cần thực hiện đồng bộ, phối hợp.

- Môi trường sống ô nhiễm: không khí trong sạch do bụi bẩn, khói thuốc lá, than, củi đun bếp, khí ô tô, mùi hôi thối do chất thải của phân người và gia súc. Ngoài ra, nước và không khí còn bị ô nhiễm bởi các loại hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón ruộng dễ dẫn đến nhiễm khuẩn đường hô hấp và tiêu hóa cho trẻ.

Những hậu quả vào mặt dinh dưỡng do nhiễm khuẩn gây nên:

Khi nắm được những thiệt hại vào dinh dưỡng khi sốt nhiễm khuẩn, chúng ta sẽ biết cách chủ động bù đắp những thiệt hại đó, giúp trẻ đảm bảo thu nạp chất dinh dưỡng tốt hơn, nâng cao được sức đề kháng của cơ thể:

- Chán ăn là triệu chứng thường gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn do Cachectin, 1 Cytokin peptid được tạo bởi các thực bào. Đồng thời khi sốt cao trên 38oC các men enzyme tiêu hóa bị ức chế dẫn đến chán ăn và kém hấp thu.

Chán ăn cùng với các triệu chứng nôn, buồn nôn làm giảm tiếp tiếp nhân khẩu phần ăn.

- Giảm năng lượng khẩu phần: ở trẻ SDD dưới 6 tuổi, lúc bị ốm, năng lượng khẩu phần giảm 20% tương đương 170-180Kcal/ngày. Người ta ước tính, sốt gây giảm 10-40% năng lượng tiếp tiếp nhân từ khẩu phần ăn. Trẻ suy dinh dưỡng có sốt mức giảm 25-35%.

- Giảm sắt kẽm huyết thanh: Trong nhiễm khuẩn người ta thấy giảm sắt và kẽm trong máu. Đó là do sự trảo đổi Cytokin trung gian ảnh hưởng đến protein vận chuyển và dự trữ các muối khoáng này.

- Mất nhiều chất khoáng: Chất khoáng và vi lượng còn bị mất qua nước tiểu tỷ lệ với lượng mất nitơ: Kali, phospho, magie, lưu huỳnh, kẽm.

- Các bệnh nhiễm trùng có thể gây mất vitamin A qua phân, nước tiểu làm nâng cao nguy cơ thiếu vitamin A tại trẻ bệnh, nhất là đối với trẻ có SDD.

Đồng thời trong nhiễm khuẩn cơ thể nâng cao dùng 1 số vitamin cho đáp ứng miễn dịch như: Vitamin B, C, folát cần cho thực bào, vitamin B, A, D, E rất cần cho đại thực bào và tế bào lympho.

- Mặt khác kháng sinh sử dụng nhiều trong điều trị nhiễm khuẩn có thể ảnh hưởng không rất tốt đến chuyển hóa vitamin.

Ví dụ: - Isoniasid (INH, rimifon) INH ức chế phản ứng enzym phụ thuộc B6 và làm mất phức hợp izoniazid pyridoxal ra nước tiểu. Dùng INH cũng gây giảm niacin.

- Trime thoprim gây giảm folat.

- Tetracycline gây giảm vitamin C trong bạch cầu.

- Khi dùng phối hợp đa kháng sinh có thể gây giảm vitamin K do giảm khuẩn đường ruột.

Chế độ nuôi dưỡng trẻ bị bệnh nhiễm khuẩn có sốt:

Nguyên tắc xây dựng thực đơn:

- Giai đoạn toàn phát: Trong giai đoạn này trẻ cần nhiều nhu cầu dinh dưỡng hơn bình thường. Do vậy nếu người nuôi trẻ không có kiến thức về dinh dưỡng thì sẽ khiến trẻ ăn 1 chế độ ăn thiếu dinh dưỡng trầm trọng so với nhu cầu thực tế của trẻ và trẻ nhanh nhất bị suy dinh dưỡng.

Do sốt cao các men tiêu hóa bị ức chế, trẻ thường chán ăn, vì vậy phải cho trẻ ăn những loại thức ăn dễ tiêu hóa. Chia nhỏ nhiều bữa trong ngày, cứ 2-3 giờ/lần.

Cố gắng tăng dần lượng protid và calo:

+ Bảo đảm đủ năng lượng: 100Kcalo/kg/ngày.

+ Đủ chất đạm: 2-3g/kg/ngày.

+ Ít chất béo để dễ tiêu hóa (1-2g/kg/ngày) rồi tăng dần lên để đảm bảo năng lượng (30%).

Chế độ ăn nhiều nước: 1.000-2.000ml/ngày.

Giàu vitamin và chất khoáng: đặc biệt là vitamin C và vitamin nhóm B, vitamin A (nên sử dụng nước rau, nước quả chín, nước oresol để vừa bổ sung lượng nước vừa bổ sung thêm vitamin và chất khoáng đã bị mất do nhiễm khuẩn).

Trẻ nhỏ còn bú mẹ: cho trẻ bú nhiều lần hơn và thời gian mỗi lần bú lâu hơn bình thường. Nếu trẻ không ngậm bú được, người mẹ cần vắt sữa vào cốc rồi dùng thìa cho trẻ uống.

Trẻ lớn hơn đã ăn bổ sung:

Cần cho ăn bột, cháo loãng hơn bình thường nhưng vẫn giữ nguyên tắc đủ 4 nhóm thực phẩm.

Cần đánh tráo thức ăn và cho trẻ những loại thức ăn trẻ thích để khuyến khích trẻ ăn được nhiều, kích thích sự thèm ăn.

Nếu trẻ bị tiêu chảy có thể dùng mức giá đỗ xanh trộn về bột, cháo đẻ hóa lỏng bữa ăn vẫn bảo đảm đem đến nhiều đạm, bột mà vẫn dễ ăn cho trẻ.

- Giai đoạn lui bệnh: Cần cho trẻ ăn tăng dần trở về chế độ bình thường, sau đó là chính sách ăn hồi phục.

Chế độ ăn hồi phục là chế độ ăn giàu calo, protein và vitamin.

Sau khi trẻ khỏi bệnh cần cho trẻ ăn tăng thêm bữa (tối thiểu là một bữa một ngày) và bồi dưỡng bằng các loại thức ăn giàu dinh dưỡng giúp trẻ nhanh hồi phục trong vòng vài tuần.

BS.ThS. Phan Bích Nga

(TT Khám giải đáp Dinh dưỡng - Viện Dinh dưỡng)

Bệnh “tích tụ” ở trẻ em và cách phòng ngừa

Tích tụ đạm và tích tụ đường do rối loạn men ở trẻ em đã phát sinh ra rất nhiều bệnh trạng trên hệ cơ và thần kinh, bệnh còn di truyền cho thế hệ sau.

Bệnh tích tụ đạm ở trẻ em

Trẻ ăn quá nhiều đạm (protid) mà không được chuyển hóa do rối loạn men có thể gây nên những dấu hiệu thần kinh, đặc biệt chậm phát triển trí tuệ. Bệnh thiểu năng tâm thần là hay gặp nhất. Thiểu năng tâm thần nặng thường kèm theo những cơn động kinh, đôi lúc có những cơn co cứng kiểu gấp, nâng cao trương lực cơ toàn thân, những động tác bất thường. Ngoài ra còn kết hợp những tổn thương ngoài da, rối loạn sắc tố da và chậm phát triển chiều cao, trọng lượng. Mùi của nước tiểu giống như của nước tiểu chuột, đặc biệt xuất hiện acid phenylalalin, ví dụ được phát hiện sớm có thể giúp sự phát triển chung của bệnh nhân được bình thường. Tích tụ đạm còn gây bệnh “nước ngọt - cây phong” tại trẻ em. Bệnh có hiện tượng sớm, biểu hiện bằng những rối loạn về trương lực cơ kèm theo những cơn co gấp người, những cơn động kinh, những cơn giật cơ. Đôi lúc bệnh xuất hiện muộn, dẫn đến trạng thái chậm phát triển tâm thần vận động. Tổn thương thần kinh khu trú tại trong những cấu trúc cơ myeline, gợi lên hình ảnh lâm sàng của những bệnh thoái hóa xám các sừng sau tủy sống tại trẻ em. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh là do sự dư thừa những acid amin có mạch nhánh như leucin, valin, isoleucin. Cho người bệnh ăn 1 chính sách nghèo các acid amin này có thể tránh được sự tiến triển của quy trình bệnh lý. Trong bệnh Hartnup, sự rối loạn hấp thu đường ruột trytophan gây nên những tổn thương da ban đỏ kiểu nhạy cảm với ánh sáng, dấu hiệu tiểu não, liệt vận nhãn, nhược tâm thần. Bệnh homocystein niệu có đặc điểm là chậm phát triển trí năng rất nặng, kèm theo những rối loạn tâm thần, những cơn co giật và nâng cao trương lực cơ co cứng. Trong hội chứng mắt - tiểu não - thận Lowe là chứng bệnh di truyền có liên quan đến giới tính. Bệnh biểu hiện tiểu ra quá nhiều acid amin toàn bộ, bệnh võng mạc gây mù, cùng xuất hiện với chậm phát triển trí tuệ nặng, suy giảm chiều cao, trọng lượng giảm, giảm trương lực cơ, mất phản xạ gân xương, glocom (tăng nhãn áp) và thường thấy loãng xương. Bệnh nhân có ngoại hình ấn tượng: đầu khá to, trán dô, tai to, dị thường mắt.

Bệnh tích tụ đường

Trong 1 số thể của bệnh tích tụ đường, bên cạnh những tổn thương vào cơ lại kèm theo những rối loạn thần kinh. Đó là do thiếu hụt men cần thiết cho sự thoái biến glycogen dẫn tới ứ đọng glycogen trên hệ cơ và thần kinh. Chỉ có 3 type thường gặp có tổn thương cơ, duy nhất sinh thiết cơ mới xác định được chẩn đoán. Bệnh tích tụ đường hay còn gọi là bệnh Pompe, 1 bệnh toàn thân do vắng maltase acid có thể mang nhiều hình thái khác nhau. Thể bệnh tim lớn glycogen khởi phát sớm, tổn thương tim là triệu chứng nổi bật. Tiến triển của bệnh rất nhanh và kết thúc 1 cách bi đát. Những triệu chứng về cơ như giảm trương lực cơ, teo cơ, sờ nắn cơ có cảm giác như cao su. Những triệu chứng thần kinh biểu hiện sắc thái lạnh nhạt, cơn co cứng toàn thân và những cơn co giật. Thể bệnh mất trương lực cơ bẩm sinh biểu hiện bằng giảm trương lực cơ, tiến triển nặng trong vài tháng đến 3-4 năm. Ngoài ra lại có những thể có dáng dấp bệnh cơ, xuất hiện vào tuổi lên 2, kéo dài cho đến tuổi trưởng thành với tiển triển bán cấp hoặc mạn tính. Hiện nay không có phương pháp điều trị đặc hiệu bệnh Pompe. Người ta cho sử dụng thử maltase fungique có thể mang lại một chút hy vọng. Bệnh glycogen type III còn gọi là bệnh Forbes, bệnh tích tụ polysacoharid tại mô có liên quan tới sự ngừng hoạt động của men amylo 1-6 glucosidase có thể gây thể bệnh gan (gan to, chậm lớn) hay thể cơ (trong những tuần đầu sau sinh), giảm trương lực cơ (nhưng lưỡi to), run liệt hành tủy. Bệnh cảnh có kết hợp những triệu chứng về tim. Có những dấu hiệu tổn thương cơ, ít nhiều rõ nét, đôi khi có biểu hiện lâm sàng của hội chứng loạn dưỡng cơ ở trẻ em. Sau bữa ăn giàu protein có thể dẫn tới cho bệnh nhân một tai nạn hạ đường huyết. Bệnh glycogen type V còn gọi là bệnh Mac- Arddle do vắng men phosphorylase, mà biểu hiện chủ yếu là ở cơ. Bệnh bắt đầu từ tuổi thơ ấu với trạng thái mệt mỏi bất thường bởi những cơn chuột rút cơ đau đớn xuất hiện khi gắng sức. Sau đó kéo theo yếu cơ, khó thở, mạch nhanh và tiểu ra globulin cơ. Người bệnh có thể sử dụng những chất dễ chuyển hóa như glucose, fructose lactates có thể cố gắng được phần nào tiến triển của bệnh.

Những bệnh tích tụ đạm và tích tụ đường do rối loạn men đã gây nhiều tổn thương nặng nề trên hệ cơ và thần kinh ở trẻ em mà bây giờ chưa có biện pháp điều trị hữu hiệu. Bởi vậy, khiếu nại dự bộ phận trở thành cần yếu đối với các bậc cha mẹ là không nên ăn uống quá nhiều thức ăn giàu đường, giàu đạm trong lúc hệ thống men trong cơ thể không đủ chuyển hóa có thể tích tụ lại và di truyền cho thế hệ sau.

PGS. Vũ Quang Bích