This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Yếu tố gen trong ung thư buồng trứng

(Lâm Thị Thành - Long An)

Tần suất bị ung thư buồng trứng (UTBT) tăng lên theo tuổi. Ở phụ nữ trong độ tuổi từ 50 - 75 thì tần suất hàng năm là 50/100.000 người (xấp xỉ hai lần tần suất tại người trẻ hơn). Ở người trẻ thì tần suất ung thư liên quan tới đột biến gen sẽ nhiều hơn và chẩn đoán trễ.

Yếu tố gen trong ung thư buồng trứng

Việc xác định người nào có nguy cơ cao bị UTBT là vô cùng quan trọng vì lúc đó sẽ chọn lựa được nhóm người có giá trị trong chiến lược tầm soát bệnh. Cho tới hiện tại thì một số lượng lớn các yếu tố nguy cơ gây bệnh đã được xác định, trong đó có yếu tố về gen. Nguy cơ UTBT được biết chắc chắn nhất hiện tại là tiền sử gia đình, yếu tố này hiện diện ở 10 - 15% phụ nữ bị bệnh UTBT. Một phụ nữ có một hoặc nhiều thành viên trong gia đình bị UTBT thì phải phân biệt hai yếu tố: UTBT liên quan tiền sử gia đình hay hội chứng UTBT gia đình (hiếm gặp). Theo phân tích thống kê, những phụ nữ thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai trong mối liên lạc với người UTBT sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn, tỉ lệ mắc bệnh khi người phụ nữ được 35 tuổi là 1,6 - 5% tại kiểu UTBT liên quan tiền sử gia đình. Ngược lại đối với hội chứng UTBT gia đình (di truyền) thì nguy cơ mắc bệnh rất cao (khoảng 50%).

Hội chứng UTBT gia đình không thuờng gặp, ước tính khoảng 5 - 10% các trường hợp. Hội chứng này bao gồm: hội chứng UTBT - tuyến vú, hội chứng Lynch II, nó liên quan đến các ung thư đại tràng, vú, tử cung và UTBT với ung thư đại trực tràng không do polyp (di truyền). Hội chứng di truyền thường gặp nhất chính là hội chứng UTBT - tuyến vú. Phần to các gia đình này có đột biến gen BRCA1 & BRCA2. Tần suất mang đột biến gen BRCA không như nhau giữa các dân tộc. Dạng này hay gặp tại tuổi rất trẻ (dưới 50 tuổi) và diễn ra tại nhiều thành viên gia đình (từ hai - 4 thế hệ).

BS.CKII. ĐẶNG MINH TRÍ

Béo phì làm tăng nguy cơ hen, dị ứng ở các bé gái

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lại phát hiện ra điều ngược lại ở các bé trai béo phì. So với những bé trai có cân nặng bình thường, những bé trai béo phì giảm nhẹ nguy cơ bị hen, dị ứng thực phẩm và eczema.

Các nhà nghiên cứu ở Trung tâm y khoa SUNY Downstate tại New York đã xem xét 113 trẻ (45% là nữ và 55% là nam), khoảng ¼ trong số đó bị béo phì. Tất cả những trẻ này đều sống ở New York, độ tuổi từ 8 – 9.

Nhóm nghiên cứu xem xét tiền sử sức khỏe để đánh mức chi phí một loạt tình trạng dị ứng, bao gồm hen, dị ứng thực phẩm, dị ứng theo mùa và/hoặc eczema. Trẻ được chia theo điểm số dị ứng, những trẻ gặp càng nhiều tình trạng dị ứng điểm số càng cao. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, các bé gái béo phì có điểm số dị ứng cao hơn so với những bé gái có cân nặng thông thường (4 so với 2,6). Ngược lại, những bé trai béo phì lại có điểm số dị ứng thấp hơn một chút so với những bé có cân nặng thông thường (3 so với 3,4).

Các nhà nghiên cứu kém chất lượng thuyết rằng, những khác biệt vào hormone có thể khiến các bé gái dễ bị dị ứng hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ cho thấy mối liên quan chứ không chứng minh béo phì trực tiếp gây dị ứng và cần nghiên cứu thêm để làm rõ mối liên quan này.

Nghiên cứu được thể hiện tại hội nghị thường niên của Học viện dị ứng, hen và miễn dịch Hoa Kỳ. Nghiên cứu được trình bày ở hội nghị khoa học nên được xem là sơ bộ cho đến lúc được đăng trên tạp chí có bình duyệt.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Bệnh tay chân miệng lây qua đường nước bọt

Câu hỏi:Chào Bác sĩ! Tôi năm nay 28 tuổi. Xin hỏi nếu như tôi mắc bệnh chân tay miệng lúc cho con bú có ảnh hưởng đến con không Bác sĩ?

Trả lời:

Trong thời điểm giao mùa hiện nay, bệnh tay chân miệng đang có nguy cơ bùng phát trở lại. Rất nhiều phụ nữ đang nuôi con bằng sữa mẹ mắc bệnh rất lo sợ sẽ truyền bệnh cho con.

Về vấn đề này,ThS. Nguyễn Kiên Cường - Viện Y học dự bộ phận Quân đội, cho biết:

Bệnh chân tay miệng lây truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc với dịch tiết nước bọt, đờm, dịch mũi họng, dịch tiết từ nốt phổng bị vỡ ra, hoặc qua phân của người bệnh. Bệnh không lây qua sữa mẹ; bởi vậy khi bú sữa mẹ, trẻ sẽ không có nguy cơ bị lây bệnh.

Tuy nhiên trong quá trình tiếp xúc sắp với mẹ, bé có thể bị lây nhiễm bệnh từ mẹ qua các đường trên. Vì vậy, người mẹ mắc bệnh cần đeo khẩu trang khi tiếp xúc với bé, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, tránh việc tiếp xúc sắp gũi với con như ôm, hôn. Thời gian lây truyền từ trước khi xuất hiện nốt phỏng hai ngày cho đến lúc nốt phỏng đã liền và bong vảy.

Như vậy, việc cách ly giữa mẹ và bé là biện pháp bộ phận bệnh hiệu quả nhất.

ThS. Nguyễn Kiên Cường

Những điều cần biết về u xơ tử cung

1. U xơ tử cung rất phổ biến

Một nghiên cứu cho thấy khoảng 70-80% phụ nữ bị khối u này khi tới độ tuổi 50. Tuổi dễ mắc bệnh nhất là 40-50 tuổi.

2. U xơ tử cung không phải là ung thư

U xơ tử cung là khối u lành tính, không phải là ung thư, nhưng u xơ tử cung có thể có những triệu chứng như vậy 1 dạng ung thư hiếm gặp gọi là sarcoma tử cung. Không may là các nhà khoa học chưa có cách nào tin cậy để phát hiện sarcoma, trừ khi họ thực hiện phẫu thuật để cắt bỏ khối u xơ. Nếu bạn bị u xơ, bác sĩ sẽ xem xét nguy cơ sarcoma tử cung của bạn.

3. Những người có nguy cơ

Những phụ nữ gốc Mỹ-Phi có nguy cơ cao hơn bị u xơ tử cung. Thực vậy, họ dễ bị u xơ tử cung gấp 2-3 lần. U xơ tử cung này cũng có thể xảy ra khi tuổi trẻ hơn, khối u to hơn và gây ra những triệu chứng nghiêm trọng hơn. Bạn cũng có thể bị nâng cao nguy cơ u xơ tử cung nếu chưa từng mang thai, bị thừa cân nhiều, hoặc có người thân bị u xơ.

4. Nhiều người không có triệu chứng và Không nhất thiết điều trị

U xơ tử cung chỉ cần điều trị khi nó gây ra các triệu chứng – và phần lớn phụ nữ bị u xơ không có triệu chứng. Nếu có các triệu chứng liên quan, có thể không nhất thiết phải điều trị theo cách nào khác ngoài việc theo dõi trên lâm sàng nếu thấy có nguy cơ sarcoma.

5. U xơ là nguyên do hàng đầu khiến phải cắt tử cung

Có hơn 200.000 ca phẫu thuật cắt tử cung được thực hiện mỗi năm tại Mỹ vì u xơ tử cung. Ngoài việc khiến người bệnh không còn khả năng sinh nở, bản thân thủ thuật này cũng mang tới nhiều nguy cơ. Vì vậy, các bác sĩ chỉ chỉ định phẫu thuật khi u xơ gây đau nhiều hoặc không đáp ứng với các phương pháp khác.

6. Cắt tử cung không phải lựa chọn duy nhất

Hiện nay có 1 số phương pháp điều trị có thể được sử dụng để làm teo hoặc làm chậm sự phát hiển của khối u xơ, bào gồm điều trị hormon, liệu pháp siêu âm hoặc bóc u xơ. Nếu u xơ tử cung không cần thiết cắt bỏ, có những phương pháp khác có thể giúp xử lý các triệu chứng như ibuprofen, thuốc tránh thai hoặc đốt (một thủ thuật dùng sóng cao tần để phá hủy)

7. Triệu chứng hay gặp nhất là kinh nguyệt nhiều

Khi bị u xơ tử cung, bạn có thể bị ra máu nhiều trong kỳ kinh, thậm chí có thể có các cục máu đông. U xơ cũng có thể gây chảy máu giữa kỳ kinh, buồn tiểu thường xuyên, co thắt vùng chậu, chướng bụng, đau khi giao hợp.

8.Gây khó mang thai

Phần lớn phụ nữ bị u xơ vẫn mang thai tự nhiên nhưng có thể gặp các biến chứng. Nghiên cứu cho thấy 1 số loại u xơ tử cung có thể làm đánh tráo kích thước và hình dạng của tử cung, ảnh hưởng đến khả năng mang thai của phụ nữ, mặc dù các chuyên gia ước tính u xơ chỉ gây vô sinh cho 1-2 % các trường hợp.

U xơ cũng có liên quan tới nguy cơ phải sinh mổ cao hơn gấp 6 lần và nguy cơ băng huyết sau đẻ.

9. Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân

Nguyên nhân chính xác của những đột biến gây u xơ tử cung vẫn chưa được làm rõ. Nghiên cứu bây giờ thiên về những tác động của các hormon như estrogen và progesteron, vì vậy, khối u hiếm khi có hiện tượng trước khi có kì kinh nguyệt đầu tiên và giảm sau khi mãn kinh. Stress, chính sách ăn và các nhân tố môi trường cũng có thể đóng vai trò cần yếu trong phát triển u xơ.

BS Cẩm Tú

(Theo WHM/ Univadis)

Nước dừa: Rất tốt cho trẻ nhỏ

Dừa được trồng rất nhiều ở các nước nhiệt đới và được xem là một loại cây cho giá trị cao. Nước dừa hay nước dừa non thường có trong các quả dừa non, hoặc còn xanh và trẻ nhỏ thường rất thích uống bởi vị ngọt, mát.

 

Nước dừa là một trong những nguồn giàu chất điện phân. Nó cũng chứa nhiều clorua, kali, magiê và 1 lượng đường, natri và protein vừa phải. Nước dừa cũng là nguồn mang đến chất xơ, mangan, canxi, riboflavin và vitamin C.

Nước dừa được xem là rất tốt với những người bị kiệt sức bởi nó giúp cơ thể bổ sung lượng muối đã bị mất trong cơ thể. Đối với trẻ nhỏ, nước dừa giúp ngăn ngừa tình trạng khử nước khi trẻ bị tiêu chảy.

Vào những tháng mùa hè nóng bức, lúc bé yêu của bạn (dưới3 tuổi) khát, nước dừa sẽ tốt cho trẻ hơn là các loại nước quả và các loại nước có ga. Nó vô hại vì thế tốt cho trẻ nhỏ trong những chuyến du lịch, nơi mà bạn thường lo lắng vào sự ô nhiễm nguồn nước.

Nước dừa cũng là thuốc lợi tiểu tự nhiên và vì thế có tác dụng bài tiết nước tiểu nhanh hơn. Nó cũng giúp ngăn ngừa tình trạng nhiễm trùng đường tiểu và chứng phong hàn.

 Nước dừa được xem là loại nước bổ dưỡng và nhất là phù hợp với trẻ nhỏ tại mọi độ tuổi 
Nước dừa cũng giúp giảm táo bón, cải thiện chức năng đường ruột và tăng cường chức năng tiêu hóa. Nó cũng tốt cho trẻ sơ sinh, những trẻ có khiếu nại về đường ruột.

Nước dừa rất giàu axit lauric (một loại axít béo được tìm thấy dưới dạng glyxêrin trong 1 số chất béo tự nhiên, nhất là là trong dừa và nhân của cọ), một hợp chất mà cơ thể thường dùng để tổng hợp ra monolaurin- 1 kháng sinh tự nhiên. Trẻ sơ sinh được cung cấp các kháng thể này qua sữa mẹ và vì thế nước dừa cũng rất tốt cho các bà mẹ đang cho con bú. Axit lauric có khả năng kháng nấm, kháng khuẩn, bảo vệ trẻ khỏi các bệnh truyền nhiễm khác.

Với toàn bộ những điều hoàn hảo trên, nước dừa được xem là loại nước bổ dưỡng và nhất là phù hợp với trẻ nhỏ ở mọi độ tuổi.

TheoNhân Hà dantri.gif

10 `bí kíp` khi con chuẩn bị thi đại học

Nguyễn Thu Thủy

Sau 12 năm đèn sách miệt mài, đây là thời gian các em học sinh bước về ôn luyện bận rộn nhất, chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Phụ huynh chúng ta có thể làm 1 số việc giúp con em mình bảo đảm chất lượng ôn tập trước khi thi và ổn định tâm trạng trong khi thi.

1 Trước tiên, tinh thần của cha mẹ phải ổn định trước, như thế sẽ làm cho con mình thi cử với tâm trạng ổn định. Trong thời gian con mình ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi, phụ huynh cần loại bỏ những ảnh hưởng tới từ bên ngoài, bảo đảm luôn ở trong trạng thái hòa nhã, điều đó có tác dụng lớn đến chất lượng ôn tập của con em mình.

2 Cần phải luôn vui vẻ, có một số phụ huynh sợ con thi không được tốt nên lo lắng, buồn, ít nói, như thế con sẽ biết cha mẹ còn hồi hộp hơn mình. Phải tạo bầu không khí gia đình đầm ấm, hòa thuận. Sức mạnh tình cảm là hết sức lớn lớn, bầu không khí đầm ấm sẽ làm tiêu tan sự lo âu, buồn phiền và nóng vội, giúp các em điều chỉnh vào tinh thần, tăng chất lượng ôn tập.

3 Khuyên con nỗ lự hết sức mình. Thường thì đa số phụ huynh các học sinh giỏi, trước khi thi không nói nhiều, không dặn đi dặn lại: “Con phải dồn hết tâm trí, phải cẩn thận tỉ mỉ” Và cũng không nói, ví dụ không thi được thì hậu quả sẽ ra sao, và cũng không hứa là thưởng gì đó cho con, càng không bao giờ dọa nạt con. Tốt nhất chỉ nên nói với con “Khi thi con nỗ lự hết mình là được rồi”.

4 Phụ huynh với con đề ra kế hoạch ôn tập sao cho hợp lý. Đưa ra kế hoạch ôn tập, chính yếu là theo ý kiến của con, cha mẹ có thể nêu ý kiến và khuyên 1 số điều cần thiết, tuyệt đối không nên làm hộ theo ý mình.

5 Tạo môi trường ôn tập yên tĩnh, vì có yên tĩnh các em mới có tâm trạng thanh thản, và tăng hiệu quả ôn tập. Một môi trường ồn ào, không những khiến các em cáu kỉnh mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả.

6Khuyên con nên dành một ít thời gian để vận động và giải trí nhẹ nhàng. Trong thời gian tại nhà ôn tập, có không ít em cứ ngồi xuống làm bài hay xem sách là ngồi cả 1 buổi, trưa cũng không nghỉ, đến đau đầu nhức óc, tương tự không những không tốt cho việc học mà còn ảnh hưởng đến tinh thần.

7 Khuyên con nên Quan tâm giữ gìn sức khỏe. Có những em trước lúc thi bị đi ngoài do ăn uống mất vệ sinh. Có một số em thì do mở máy điều hòa nhiệt độ trong thời gian dài, còn có em thì bị cảm nắng do thời tiết quá nóng bức. Điều này không những ảnh hưởng tới tinh thần của các em, mà còn ảnh hưởng tới việc ôn tập. Phụ huynh phải Quan tâm giữ vệ sinh trong ăn uống cho các em, không nên cho con ăn nhiều thịt, cá và những thức ăn nhiều mỡ, uống nhiều nước lạnh, vì những thức ăn đồ uống này dễ gây rối loạn tiêu hóa.

8 Thường xuyên giúp các em điều chỉnh tinh thần. Trong thời gian ôn tập chuẩn bị thi, tâm trạng có một số thay đổi, thậm chí có hiện tượng sự buồn bực không yên, đây cũng là hiện tượng bình thường, phụ huynh không nên quá lo ngại. Nhưng cũng nên bình thản và xuất phát từ góc độ tôn trọng con, giúp con cân bằng tâm lý một cách kịp thời, tránh tình trạng này tiếp tục phát triển.

9 Chuẩn bị một túi thuốc nhỏ. Trong thời gian này, rất có thể là các em dễ bị ốm vặt như: cảm cúm, rối loạn tiêu hóa… bởi vậy phải chuẩn bị những thuốc thông dụng. Tuy nhiên, cũng đừng chủ quan hãy nên hết sức Quan tâm việc bộ phận bệnh là chính.

10

Hãy phụ với con chuẩn bị những thứ cần dùng trong khi con đi thi. Tối hôm trước ngày thi phải nhắc nhở xem các em đã bỏ thẻ dự thi vào túi chưa? Hai ngày trước khi thi nếu có điều kiện hãy cùng con đi xem trường thi… Trước khi con đi thi, phụ huynh phải làm rất tốt việc bảo đảm tinh thần của con ở trạng thái tốt, đảm bảo chất lượng ôn tập bằng hành động thực tế của mình, giúp con đạt được giấc mơ về đại học.

(Nguyễn Thu Thủy)

Rối loạn tiêu hoá: Bệnh dễ mắc ở trẻ em

BS. Trần Trung

Trong ruột người có hàng nghìn loại vi khuẩn khác nhau, các vi khuẩn có lợi và có hại sống "bình đẳng" với nhau lúc cơ thể khỏe mạnh. Do nhiều nguyên nhân như sử dụng thuốc kháng sinh chỉ mất khoảng dài, chế độ ăn nhiều đường hoặc quá ít sữa lên men tự nhiên như sữa chua, phô mai không béo..., uống nhiều bia rượu... sự cân bằng này bị biến mất. Khi các vi khuẩn có lợi bị tiêu diêt, các vi khuẩn có hại tiện lợi xâm nhập gây ra các triệu chứng rối loạn tiêu hoá như tiêu chảy, đầy hơi, trướng bụng, táo bón, đáp ứng miễn dịch kém, mệt mỏi mạn tính, dị ứng...

 Cho trẻ ăn dặm với thức ăn đầy đủ dinh dưỡng để tránh rối loạn tiêu hóa. Ảnh: PV

Căn bệnh này rất nguy hiểm vì đối tượng dễ mắc phải đặc biệt trẻ em, đặc biệt là trẻ em đang tại độ tuổi ăn dặm. Khi còn nằm trong bụng mẹ, trẻ được sống trong môi trường vô trùng, được bảo vệ cẩn thận. Lúc ra đời, hệ miễn dịch của trẻ còn rất non yếu, các vi khuẩn thuận lợi xâm nhập. Khi trẻ Tiến hành ăn dặm , không còn chỉ ăn sữa nữa, hệ vi sinh của trẻ chưa hoàn thiện, dễ dẫn đến tình trạng suy giảm chức năng tiêu hoá, thức ăn không được tiêu hoá hoàn toàn (cơ thể khó hấp thu dinh dưỡng, phân sống...) khiến các vi khuẩn gây bệnh phát triển. Khi nhiễm khuẩn, trẻ thường lười ăn, hay nôn, tiêu chảy, táo bón... Qua thời gian ngắn, trẻ sẽ bị suy dinh dưỡng. Khi cơ thể trẻ yếu thì các vi khuẩn có hại này làm bệnh càng trầm trọng hơn.

Bệnh này còn dễ không may gặp phải tại những trẻ dùng thuốc kháng sinh chỉ mất khoảng dài. Các chất kháng sinh không mục tiêu diệt vi khuẩn có hại mà còn diệt luôn cả vi khuẩn có lợi. Lợi dụng thời điểm đó, các vi khuẩn có hại xâm nhập và phát triển mạnh hơn, gây mất cân bằng hệ thống vi khuẩn đường ruột (còn gọi là " loạn khuẩn ruột" ), dẫn tới rối loạn tiêu hoá.

Hoặc lúc trẻ phải chịu một chế độ ăn uống không hợp lý, giàu đạm, đường, chất béo... ít chất xơ, vitamin, chất khoáng... mà các bà mẹ vận dụng cũng là nguyên do gây ra các bệnh vào đường tiêu hoá cho trẻ. Trẻ sẽ biếng ăn, không hấp thu được các chất dinh dưỡng, dễ gây suy dinh dưỡng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến quy trình phát triển của cơ thể.

Khi trẻ có các dấu hiệu của rối loạn tiêu hóa như biếng ăn, đi ngoài phân sống... cần đưa trẻ đi khám bác sĩ. Thông thường bên cạnh việc điều chỉnh chính sách ăn phù hợp, bác sĩ sẽ chỉ định sử dụng men tiêu hóa để lập lại cân bằng hệ vi sinh đường ruột, các nhà khoa học nhận định rằng cách rất tốt nhất là bổ sung 1 hệ vi khuẩn mới có lợi dưới dạng chế phẩm Probiotic. Các vi khuẩn được chọn lựa chính yếu là vi khuẩn tại nhóm Lactic (Lactobacillus, Streptococcus). Loại men này sẽ giúp lập lại cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột, hỗ trợ điều trị rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, đầy hơi, khó tiêu... với những trẻ lười ăn, kém hấp thu.

(BS. Trần Trung)

Trẻ phát bệnh vì bị ép ăn

Chỉ nhìn thấy thức ăn, một số trẻ đã nôn, khóc, thậm chí sợ đến mức không ngủ yên giấc. Ngoài việc mắc bệnh biếng ăn tâm lý, nhiều trẻ còn chậm phát triển do bị cha mẹ ép ăn.

Bác sĩ Nguyễn Thị Hoa, Trưởng khoa Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Đồng một TP HCM, cho biết hiện mỗi ngày khoa tiếp nhận hơn 100 trẻ đến khám, trong đó khoảng 40% trẻ bị biếng ăn tâm lý.

Mở mắt ra là ăn

Mới đây, bé K. (5 tuổi, ngụ ở quận Tân Bình) được mẹ đưa tới bác sĩ khám vì suy dinh dưỡng, biếng ăn. Bé gầy gò,da xanh xao và không chịu giao tiếp với bất cứ ai. Người mẹ kể, mỗi lần ăn, cả mẹ và cô giáo đều phải la mắng suốt.

 

Gần đây, do quá bận bịu với công việc, người mẹ đã “khoán trắng” việc ăn uống của bé cho cô giáo, song song ủng hộ việc cô hù dọa để K. sợ, phải ăn. Những lần sau đó, chỉ cần K. từ chối ăn là cô giáo sẵn sàng dọa cho vào bao tải cột lại… Bé càng ngày càng sợ, chỉ cần nhìn thấy thức ăn là ngay lập tức ói. Từ 1 cháu bé vui vẻ, hoạt bát, K. trở nên chậm chạm, ít nói. Các bác sĩ chẩn đoán cháu mắc bệnh biếng ăn tâm lý,và đã có triệu chứng của bệnh tự kỷ ám thị.

 Nhiều trẻ mắc bệnh biếng ăn tâm lý, chậm phát triển do bị cha mẹ ép ăn 
Theo bác sĩ Hoa, trẻ mắc bệnh biếng ăn tâm lý phần lớn do bị cha mẹ ép ăn. Nhiều bà mẹ đưa trẻ tới khám vìbiếng ăn, nhưng lại được bác sĩ chẩn đoán… béo phì. Với quan niệm trẻ con càng tròn trịa càng dễ thương, nhiều bà mẹ ra sức ép con ăn mà quên đi nguy cơ béo phì tại trẻ. Không ít người còn ra sức ép vì luôn lấy cân nặng của con làm thành tích của mình (nhất là các bà mẹ chỉ ở nhà chăm con). Nghehọ kể về thực đơn đã ép trẻ ăn trong ngày, các bác sĩ chỉ biết… lắc đầu.

Bác sĩ Hoa nhấn mạnh, ngay cả khi bắt được con ăn theo ý muốn thì trẻ cũng không thể phát triển tốt. Trẻbị ức chế nên không tiết được đầy đủ các men tiêu hóa, không thể hấp thu tốt thức ăn. Chưa kể sự căng thẳng trong những bữa ăn còn làm trẻ luôn bị ám ảnh, ngủ không ngon giấc, không tiết ra được hoóc môntăng trưởng để phát triển.

Căng thẳng từ mẹ chuyển sang con

Chuyên gia tâm lý Ngô Xuân Điệp cho biết, khoa Tâm lýBệnh việnNhi Đồng 2 TP HCM thường xuyên tiếp nhận trẻ rối nhiễu tâm lý do bị cha mẹ, thầy cô giáo ép ăn. Với nhiều trẻ, ăn uống trở thành 1 chuyện rất khủng khiếp, có cháu bé sợđến mức nhịn suốt 2 ngày.

Theo ông Điệp, sở dĩ có tình trạng trên là do nhiều người mẹ quá đề cao chế độ dinh dưỡng của trẻ. Chỉ cần trẻ không ăn một bữa hoặc ít hơn mọi ngày là đã căng thẳng. Cũng vì lý do này mà thực đơn của trẻ thường được kê quá nhiều.Trẻ sắp như bị tước đoạt cảm giác thèm ăn. Doluôn bị ép ăn trước lúc cảm thấy đói, trẻ sẽ dần mắc bệnh biếng ăn tâm lý.

Khi sợ ăn, hoặc bị ép ăn no quá, trẻ bị nôn. Sợ con đói, nhiều người lại tiếp tục bắt trẻ ăn, thậm chí bóp miệng để đưa thực phẩm ăn vào. Điều này càng tạo thêm sự căng thẳng, sợ hãi tại trẻ. Sợ ăn kéo dài đồng nghĩa với việc trẻ bị stress kéo dài, gây ảnh hưởng đến phát triển tâm lý sau này. Dành quá nhiều thời gian cho việc ăn uống,trẻ sẽ mất đi thời gian vui chơi, vận động, gây chậm phát triển.

Ông Ngô Xuân Điệp khuyên, các bậc cha mẹ cần tôn trọng việc ăn uống của con kể cả khi trẻ từ chối, đừng quá chú trọng đến chính sách dinh dưỡng mà quên đi sự phát triển tinh thần, thể chất của trẻ. Cũng vậy, bác sĩ Hoa khẳng định, khi thấy trẻ biếng ăn bất thường, nên đưa đi khám, tránh tự ý cho trẻ uống thuốc bổ hoặc những sản phẩm quảng cáo dành cho trẻ biếng ăn. Tạo không khí vui vẻ, tha hồ trong lúc ăn,để trẻ chọn những món ưa thích. Nên tách riêng từng món, thay vì trộn lẫn.

TheoThanh PhươngDatViet.gif

 

Khi nào thì nên cho trẻ khám sỏi thận?

Phụ huynh không nên quá hoang mang, nếu trẻ khỏe mạnh thì không nên đi khám sỏi thận. Nhiều cha mẹ đã đưa con đến bệnh viện hoặc điện thoại hỏi để được tư vấn về những nhận biết lúc con bị nhiễm melamine.

Những triệu chứng nên khám sỏi thận

 Phụ huynh không nên quá hoang mang, nếu như trẻ khỏe mạnh thì không nên đi khám sỏi thận

Bác sĩ Cấn Phú Nhuận - Trưởng khoa Khám bệnh Bệnh viện Nhi trung ương cho biết mấy ngày nay nhiều bà mẹ đã đưa con đi kiểm tra sỏi thận.

Theo bác sĩ Nhuận, đối với trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ, nếu như uống phải sữa chất lượng kém thì trẻ sẽ không hấp thụ được và không tăng cân. Tuy nhiên, nếu như sau sáu, bảy tháng con mình ốm yếu, không nâng cao cân, các bậc cha mẹ mới nên đưa tới bệnh viện khám.

Một trong những triệu chứng của sỏi thận là rối loạn đường tiêu hóa như đi tiểu nhiều lần, tiểu són hay tiểu khó, tia nước tiểu yếu, ít. Ngoài ra, trẻ bị sỏi thận còn có thể đi tiểu ra máu, nước tiểu đục và kèm theo những cơn đau bụng. Trẻ chậm lên cân, ói mửa thường xuyên, kém ăn cũng là biểu hiện của suy thận hoặc ngộ độc với melamine. Với những biểu hiện bệnh trên, bác sĩ sẽ siêu âm bụng, đồng thời xét nghiệm máu để xác định đúng bệnh.

Bác sĩ khuyên: Cha mẹ không nên đưa trẻ đi khám bệnh ví dụ không thấy 1 trong những biểu hiện trên. Thậm chí trẻ đang khỏe mạnh cũng có thể bị lây bệnh từ trẻ bệnh đang cùng chờ khám.

Bác sĩ Tăng Chí Thượng - Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) cho biết có không ít phụ huynh gọi điện thoại tới nhờ tư vấn melamine là chất gì, nguy hại ra sao. Đã có một, hai phụ huynh tới Bệnh viện Nhi đồng 1 xin kiểm tra sỏi thận cho con, không những thế chưa có trường hợp nào mắc phải. Bác sĩ Thượng cho biết nếu như bà mẹ khai cho con uống sữa có Xuất xứ từ Trung Quốc có melamine, bệnh viện sẽ cho theo dõi, kiểm tra làm rõ.

Nếu bà mẹ khai cho con uống sữa Trung Quốc nhưng không rõ là loại nào thì bệnh viện sẽ cho xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu để xem có hồng cầu, đạm hay không. Nếu trong nước tiểu của trẻ có hồng cầu, đạm thì sẽ tiếp tục cho trẻ siêu âm để kiểm tra tiếp. “Nếu bà mẹ không cho con em mình uống sữa có Xuất xứ từ Trung Quốc thì cũng đừng quá lo lắng và bệnh viện sẽ hỗ trợ tư vấn là không nên kiểm tra” - bác sĩ Thượng nói.

Một sản phẩm sữa có 2 kết quả xét nghiệm

Tối 30-9, từ kết quả xét nghiệm của Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM cho thấy sản phẩm sữa tăng chiều cao dành cho trẻ từ 1 tới bảy tuổi của Công ty cổ phần Dinh dưỡng Thực Phẩm Vàng (phường 4, Phú Nhuận, TP.HCM) nhiễm melamine, Thanh tra Sở Y tế niêm phong tất cả mặt hàng nói trên cùng những sản phẩm sữa khác cũng của công ty.

 Kiểm tra chất melamine tự động trên máy GCMS tại Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM
Ông Trần Anh Tuấn, Giám đốc Công ty cổ phần Dinh dưỡng Thực Phẩm Vàng, cho biết tháng 7-2008, công ty sản xuất thử 72 hộp sữa tăng chiều cao dành cho trẻ từ một tới bảy tuổi (bao bì giấy có trọng lượng 440 g). Công ty đã biếu 51 hộp cho khách hàng quen, 21 hộp còn lại được để ở công ty. Cũng theo ông Tuấn, nguyên liệu để sản xuất mặt hàng trên cùng các sản phẩm sữa khác đều nhập từ Công ty Maray Goubourn (Úc) và được một cơ quan sở ở xác nhận không nhiễm melamine.

Ông Tuấn cho biết thêm, khi diễn ra sự kiện chất melamine có trong sữa Trung Quốc, Công ty Thực Phẩm Vàng mang toàn bộ mẫu sữa của công ty xét nghiệm ở Trung tâm Đào tạo và phát triển sắc ký TP.HCM và kết quả đều không nhiễm melamine. Tuy nhiên, lúc Thanh tra Sở Y tế mang tất cả mẫu sữa của công ty xét nghiệm ở Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM thì chỉ có sữa nâng cao chiều cao dành cho trẻ từ một đến bảy tuổi bị nhiễm melamine, mặc dù hàm lượng không cao.

Theo đề nghị của ông Tuấn, Thanh tra Sở Y tế đồng ý cùng đại diện công ty ngày 1-10 mang mẫu lưu của sữa tăng chiều cao dành cho trẻ từ 1 đến bảy tuổi tới Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM xét nghiệm lại để có kết quả chính xác. Thanh tra Sở Y tế cũng yêu cầu Công ty Thực Phẩm Vàng thu hồi số lượng sữa nâng cao chiều cao dành cho trẻ từ 1 đến bảy tuổi đã biếu khách hàng.

TheoT. Như - T. Ngọc.D. Tínhphapluattphcm.gif

Lời khuyên cho các bà mẹ ít sữa

Cho trẻ bú bằng sữa mẹ mang lại gần như ích lợi cho cả mẹ và bé. Tuy nhiên, rất nhiều người thường lo lắng vì không có đủ lượng sữa thiết yếu cho bé. Những cách đơn giản sau sẽ giúp chị em phần nào giảm bớt những lo lắng này.

Vai trò của sữa mẹ

Trước hết sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, phù hợp nhất đối với trẻ mà không có bất cứ loại sữa bột nào có thể so sánh được. Trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng nhu yếu như: đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỉ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển cơ thể trẻ. Bú mẹ, trẻ sẽ to nhanh, phòng được suy dinh dưỡng. Trong sữa mẹ có những nhân tố cần phải có bảo vệ cơ thể mà không một thức ăn nào có thể thay thế được đó là: các globulin miễn dịch, cốt yếu là IgA có tác dụng bảo vệ cơ thể chống các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn.

 

Các loại sữa mẹ

Sữa non: là dòng sữa đầu tiên, rất giàu năng lượng, thích hợp với nhu cầu của trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sơ sinh non tháng. Sữa non giàu đường lactose và ít protein (đạm) hơn sữa bò, giàu các chất diệt khuẩn giúp trẻ tránh các bệnh nhiễm trùng, giàu vitamin A gấp 10 lần so với sữa vĩnh viễn. Nếu vì lý do gì trẻ không bú được sữa non thì có thể vắt ra cho trẻ uống.

Sữa chuyển tiếp: có từ ngày thứ 5 tới ngày thứ 14 sau lúc người phụ nữ sinh con.

Sữa vĩnh viễn: từ ngày 10 – 14 sau sinh, sữa mẹ sẽ tăng nhiều về số lượng và thay đổi cả vào hình thức lẫn thành phần. Sữa mẹ trở thành loãng hơn và đó là sữa mẹ hoàn chỉnh với các thành phần dinh dưỡng ổn định. Các nhà chuyên môn tiếp nhân thấy, chính sách dinh dưỡng của người mẹ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sữa mẹ.

Các nguyên do làm giảm sự tiết sữa

Cho con bú chậm sau sinh từ hai -3 ngày. Mẹ có các bệnh lý như: suy tim, thiếu máu, suy dinh dưỡng…

Mẹ còn quá trẻ: dưới 18 tuổi, tuyến vú chưa phát triển.

Mẹ không nâng cao cân đầy đủ khi mang thai.

Mẹ dùng các thuốc ức chế sự tiết sữa: aspirin, kháng sinh, chống dị ứng.

Làm gì để mẹ cónhiều sữa

Cho trẻ bú đều: tốt nhất, ngay sau khi sinh trong vòng nửa giờ đầu người mẹ nên cho trẻ bú. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa sớm… Trong những ngày đầu sữa còn ít, cần cho trẻ bú nhiều lần, sữa sẽ “về” nhiều hơn. Nếu đã ít sữa mà lại cho trẻ bú ít hoặc ăn bổ sung sữa ngoài, trẻ sẽ bỏ bú và sữa cạn dần, dẫn đến mất sữa. Trẻ được bú sữa non sẽ phòng bệnh được tốt. Động tác bú có tác dụng co hồi tử cung và cầm máu cho người mẹ sau sinh.

Dinh dưỡng đầy đủ: để góp phần bảo đảm có đủ sữa cả về số lượng lẫn chất lượng, người mẹ cần ăn uống đầy đủ. Khẩu phần ăn cần tăng thêm khoảng 350 Kcal/ngày, tương đương khoảng 1/4 lượng thức ăn so với ngày thường. Bữa ăn của mẹ cần đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm. Nhóm chất bột (cơm, khoai củ, bánh mì, bún, bánh phở…); Nhóm chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, đậu đỗ…); Nhóm chất béo (dầu mỡ, bơ, lạc…); Nhóm viatmin và khoáng chất (rau xanh, quả chín). Mỗi bữa bà mẹ nên ăn thêm 1 bát cơm hoặc 1 củ khoai cùng ít thịt hoặc cá, trứng, đậu đỗ, rau củ và quả chín…

Uống đủ nước: người mẹ cần đem đến đủ lượng nước nhu yếu cho cơ thể, có thể là uống sữa hay nước ép trái cây đều rất tốt chỉ cần khoảng cho bé bú, uống đủ nước giúp cơ thể mẹ tiết ra nhiều sữa cho bé hơn.

Nghỉ ngơi đầy đủ: các bà mẹ đang trong thời kỳ cho con bú rất cần được nghỉ ngơi đầy đủ và liên tục đi dạo để hít thở không khí trong lành. Để bảo đảm sức khỏe và đủ sữa cho con bú, bạn cần ngủ ít nhất 10 tiếng mỗi ngày, hai - 4 tiếng ban ngày và 6-8 tiếng ban đêm. Stress ảnh hưởng lớn tới việc tiết sữa của cơ thể người mẹ, vì thế nghỉ ngơi và thư giãn là cách giúp nâng cao cường lượng sữa. Ngoài ra, người mẹ cần ăn kiêng những chất ảnh hưởng tới chất lượng và số lượng sữa như: rượu, cà phê, thuốc lá… Không nên uống các loại thuốc tân dược lúc không có chỉ định của bác sĩ.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh )

Điều trị viêm âm đạo

Viêm âm đạo là một bệnh phụ khoa rất thường gặp ở phụ nữ nhưng nguyên nhân gây viêm thì có không ít loại mầm bệnh khác nhau. Viêm âm đạo có thể do các vi khuẩn bình thường loại hiếu khí (phát triển trong môi trường có ôxy) hoặc kỵ khí (chỉ phát triển khi môi trường thiếu ôxy), có thể do những vi khuẩn đặc hiệu như chlamydia trachomatis, vi khuẩn lậu (bệnh lây truyền theo đường tình dục), có thể do vi nấm, có thể do ký sinh trùng như trichomonas vaginalis (trùng roi)..., nên điều trị viêm âm đạo muốn có hiệu quả phải tìm đúng nguyên nhân gây bệnh để sử dụng đúng thuốc đặc trị. Do vậy, lúc bị bệnh phải tới bác sĩ khám bệnh và kê đơn thuốc, thực hiện đúng chỉ định của bác sĩ.

Bệnh viện âm đạo thường gặp có mấy loại sau:

- Viêm âm đạo do nấm Candida: Cũng là một chứng viêm nhiễm âm đạo thường gặp ở phụ nữ có thai, người mắc bệnh đái tháo đường, người đang dùng thuốc hormon nữ và nhất là tại những bệnh nhân sử dụng kháng sinh kéo dài. Đặc điểm của khí hư loại này là kèm theo ngứa, đau rát âm đạo ngoài, khí hư có màu sữa chua hoặc bã đậu. Điều trị cần rửa âm đạo kết hợp với đặt thuốc mỗi ngày một lần dùng thường xuyên 7 ngày, sau đó kiểm tra lại và kiên trì điều trị 1-2 đợt nữa để tránh tái phát.

 Ảnh minh họa. Ảnh: corbis

- Viêm âm đạo do trùng roi: khí hư có màu vàng và có mùi hôi, bộ phận âm đạo ngoài có cảm giác nóng rát, có thể kèm theo tiểu khó, hay gặp về thời kỳ trước hoặc sau kỳ kinh nguyệt, vì vậy để điều trị trùng roi cần kiên trì, sau kinh nguyệt tiếp tục điều trị 2-3 đợt để phòng viêm âm đạo tái phát. Bạn tình cũng nên phối hợp điều trị để không bị truyền nhiễm tái phát khi giao hợp.

- Viêm âm đạo do nhiễm tạp khuẩn: Đặc điểm chính yếu của bệnh này là dịch tiết âm đạo nhiều, có màu trắng xám, bạch đới hơi loãng, có mùi rất hôi và tanh, các loại vi khuẩn thường là những vi khuẩn yếm khí hỗn hợp. Việc điều trị cần dùng cả thuốc uống, rửa và thuốc đặt.

Những bệnh nhân viêm âm đạo lưu ý tránh quan hệ tình dục chỉ cần khoảng chữa bệnh hoặc dùng bao cao su để tránh lây nhiễm, vệ sinh thân thể sạch sẽ, quần lót, khăn tắm phải thay thường xuyên, cần sấy giặt, phơi nơi khô ráo, thoáng để tránh vi khuẩn lây nhiễm trở lại. Đồng thời có chính sách ăn uống nghỉ ngơi hợp lý để nâng cao sức đề kháng của cơ thể.

BS. Quốc Sang

Cách phát hiện sớm viêm phổi ở trẻ

Viêm phổi là hiện tương nhiễm trùng cấp tính ở phổi, do nhiều nguyên nhân gây nên như vi khuẩn (phế cầu, liên cầu, tụ cầu, hemophilus influense, E.coli, trực khuẩn mủ xanh...) virut (cúm, thủy đậu, sởi, SARS), nấm, ký sinh trùng... Đây là bệnh rất quen thuộc tại trẻ em dưới 5 tuổi ví dụ không được phát hiện, điều trị sớm, đúng cách trẻ rất dễ tử vong. Bệnh thường có hiện tượng nhiều về mùa đông xuân, lúc thời tiết thay đổi, trời lạnh, độ ẩm cao.

Làm thế nào để phát hiện sớm viêm phổi tại trẻ?

Thở nhanh là 1 phản ứng của cơ thể đối với hiện tượng thiếu ôxy trong viêm phổi. Đồng thời khi bị viêm, phổi sẽ mất tính mềm mại và sự giãn nở sẽ yếu đi. Do vậy, lúc bị viêm phổi, bắt buộc nhịp thở phải nâng cao lên. Thở nhanh là dấu hiệu cần phải có và có trị giá để phát hiện sớm các trường hợp viêm phổi tại cộng đồng cũng như trong bệnh viện.

Để phát hiện thở nhanh, phải đếm nhịp thở trẻ trong vòng 1 phút.

Cách đếm: Bà mẹ ngồi ôm trẻ vào lòng, giữ trẻ tại trạng thái yên tĩnh, không kích thích, không để quấy khóc. Vén áo trẻ lên cho phần bụng và phần ngực được phơi trần. Nhìn về bụng hoặc ngực của trẻ để đếm.

Mỗi lần hít về và thở ra một nhịp. Đếm tròn 1 phút. Tính thời gian dựa về kim giây của đồng hồ. Để lấy số chuẩn xác của số lần thở trong một phút có thể 2 người cùng phối hợp đếm nhịp thở: Một người đếm và một người theo dõi đồng hồ trong vòng một phút. Nếu nghi ngờ có thể đếm lại lần thứ 2.

Tròn một phút, dựa vào số nhịp thở và tuổi của trẻ để kết luận trẻ có thở nhanh hay không?

Trẻ dưới 2 tháng tuổi, nhịp thở 60 lần/phút là thở nhanh.

Trẻ từ 2 tháng tuổi đến 11 tháng tuổi, nhịp thở 50 lần/phút là thở nhanh.

Trẻ từ 12 tháng tuổi tới 60 tháng tuổi, nhịp thở 40 lần/phút là thở nhanh.

Nếu trẻ thở nhanh có nghĩa là trẻ đang bị viêm phổi.

Khi trẻ bị viêm phổi, người nhà không được tự điều trị mà phải tới khám tại cơ sở y tế. Thầy thuốc sẽ điều trị viêm phổi bằng thuốc kháng sinh. Thuốc kháng sinh này phải sử dụng đúng loại, đúng liều lượng và đủ thời gian.

Ngoài ra những trường hợp ho, sổ mũi mà kèm theo những dấu hiệu sau đây phải ngay tức khắc đưa trẻ tới vào bệnh viện:

- Co lõm ngực (phần giữa bụng và ngực lõm vào lúc trẻ hít vào).

- Thở mệt, cánh mũi phập phồng, tím tái.

- Thở khò khè hay thở rít khi nằm yên.

- Không uống được, co giật hoặc li bì khó đánh thức.

Lưu ý: Mọi trường hợp viêm phổi tại trẻ dưới hai tháng đều nặng và cần được nhập viện.

Bác sĩ Thúy An

(Bác sĩ Thúy An)

Chăm sóc phụ nữ mang thai nhiễm HIV và con họ

HIV/AIDS đang là khiếu nại mang tính toàn cầu. Nhiều chương trình, chiến lược bộ phận chống HIV/AIDS đã được phát động và triển khai nhưng đại dịch HIV/AIDS vẫn có xu thế phát triển và lan rộng, đối tượng nhiễm HIV càng ngày càng trẻ hóa. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, có khoảng sắp 3.000 trẻ trong số gần 2 triệu trẻ mới sinh hằng năm có nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ. Tuy nhiên còn có 1 điều may mắn không phải đứa trẻ nào sinh ra từ mẹ nhiễm HIV cũng bị nhiễm HIV. Nếu biết dự phòng, chăm sóc và theo dõi đúng cách, số trẻ nhiễm HIV sinh ra từ mẹ có HIV sẽ giảm đi đáng kể.

Không phải tất cả các trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV đều bị nhiễm HIV

 Trẻ có mẹ nhiễm HIV ngay sau khi sinh cần được tắm ngay, sau đó được dùng thuốc kháng virut để dự phòng.

Đứa trẻ mới sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV được gọi là “trẻ có phơi nhiễm HIV” chứ không được khẳng định trẻ nhiễm HIV. Hiện nay, bình thường người ta chẩn đoán nhiễm HIV trẻ sinh ra từ những người mẹ nhiễm HIV khi trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên, có xét nghiệm kháng thể HIV dương tính 3 lần với 3 phương pháp khác nhau. Nếu trẻ có bú mẹ cần xét nghiệm sau khi trẻ ngừng bú mẹ hoàn toàn 6 tuần. Đối với những trẻ dưới 18 tháng chỉ chẩn đoán nhiễm HIV các xét nghiệm vào virut học dương tính (xét nghiệm tìm kháng nguyên p24, xét nghiệm PCR ADN hoặc PCR ARN) (PCR: Polymerase chain reaction).

Quản lý, theo dõi và chăm sóc phụ nữ nhiễm HIV khi mang thai

Phụ nữ nhiễm HIV lúc có thai cần phải quản lý, theo dõi và chăm sóc tại các cửa hàng sản khoa. Song song với việc đánh mức chi phí tình trạng thai nghén theo định kỳ, tình trạng lâm sàng nhiễm HIV cũng phải được theo dõi và đánh mức chi phí sát. Nếu thai phụ nhiễm HIV đang được dùng thuốc kháng virut (ARV) thì tiếp diễn được theo dõi và sử dụng thuốc theo hướng dẫn; nếu như chưa được dùng thuốc kháng virut, nhưng trong quá trình mang thai có đủ tiêu chuẩn dùng thuốc kháng virut thì được chỉ định dùng và theo dõi; trường hợp thai phụ nhiễm HIV chưa đủ tiêu chuẩn sử dụng thuốc kháng virut thì được dùng thuốc để dự bộ phận lây truyền virut từ mẹ sang con. Tùy thuộc về thời điểm xác định HIV dương tính về giai đoạn mấy của thai kỳ mà có các chỉ định dự bộ phận khác. Thông thường thai phụ sẽ được uống thuốc dự phòng từ lúc xác định HIV dương tính cho tới trước khi chuyển dạ và một liều lúc Tiến hành chuyển dạ. Khi chuyển dạ, cần hạn chế tối thiểu các chấn thương cho mẹ và cho trẻ như bảo đảm vô khuẩn tuyệt đối lúc đỡ đẻ, không rạch màng ối sớm, giảm thiểu các can thiệp gây chảy máu đường sinh dục trong thời gian sinh, tránh các thủ thuật can thiệp có thể gây tổn thương da cho thai nhi... Bên cạnh các chăm sóc về y tế thì những chăm sóc vào tinh thần và hỗ trợ tư vấn sẽ giúp cho người mẹ thêm kiến thức về đường lây truyền HIV/AIDS là trung tâm để thai phụ ổn định tâm lý và tuân thủ tốt các hướng dẫn điều trị, dự phòng.

Quản lý, theo dõi và chăm sóc trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV

Việc quản lý, theo dõi, chăm sóc rất tốt trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV bên cạnh tác dụng làm giảm đáng kể việc lây truyền virut từ mẹ sang con còn có ý nghĩa giúp các nhà thống kê, các nhà quản lý ước đoán được con số chuẩn xác tỷ lệ trẻ xác định nhiễm HIV sinh ra từ mẹ nhiễm HIV. Công việc này đòi hỏi sự phối hợp tốt giữa ngành sản khoa, lĩnh vực nhi khoa cùng sự chấp hành, tuân thủ tốt của người chăm sóc trẻ. Cần tư vấn cho người mẹ về nguy cơ lây truyền HIV qua sữa mẹ từ đó khuyến khích nuôi trẻ bằng thức ăn thay thế hoàn toàn ngay sau đẻ. Trong trường hợp không thể nuôi hoàn toàn bằng thức ăn thay thế, giải đáp cho người mẹ chỉ cho ăn bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 4-6 tháng đầu. Người mẹ sau lúc sinh tiếp tục được theo dõi, xem xét chỉ định dùng thuốc kháng virut, dự bộ phận các nhiễm trùng cơ hội và dự phòng cho cộng đồng như những người nhiễm HIV khác. Trẻ ngay sau khi sinh cần phải tắm ngay, sau đó được dùng thuốc kháng virut để dự bộ phận tùy từng loại thuốc có thể sử dụng trong 48 giờ đầu hoặc cho tới 1 tuần tuổi. Tiếp sau đó, trẻ cần phải theo dõi và xét nghiệm để khẳng định có nhiễm HIV hay không, đồng thời dự phòng các nhiễm trùng cơ hội có thể diễn ra và xem xét chỉ định điều trị thuốc kháng virut nếu trẻ có đủ tiêu chuẩn được sử dụng thuốc. Những trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV chưa chẩn đoán xác định nhiễm HIV không có những lưu ý đặc biệt vào tiêm chủng so với trẻ bình thường, ngoại trừ cần lưu ý theo dõi để phát hiện các biến chứng sau lúc tiêm BCG (vaccin phòng lao). Trong trường hợp trẻ đã được xác định nhiễm HIV và có các biểu hiện lâm sàng của AIDS các giai đoạn thì tiêm chủng theo sự hướng dẫn của các bác sĩ chuyên khoa.

ThS. Lê Hà Kiên

Có nên tiêm nhiều loại vaccin cùng lúc?

Con tôi 2 tuổi. Từ khi cháu còn bé tôi thường cho cháu đi tiêm bộ phận nhiều mũi khác nhau, cả miễn phí và tự nguyện. Đợt này tôi định tiêm bộ phận cho cháu 2 bệnh quai bị và thủy đậu, để cho nhân thể tôi muốn tiêm cả 2 mũi cùng 1 khi trong lần đưa cháu đi tiêm có được không? Xin báo hỗ trợ tư vấn giúp.

Hà Thị Ngạc (Nam Định)

 Cần giải đáp trước lúc tiêm bộ phận cho trẻ.

Chị cho con tiêm bộ phận đầy đủ tương tự là rất tốt vì bộ phận bệnh bao giờ cũng rất tốt hơn chữa bệnh. Tuy nhiên có những loại vaccin có thể tiêm cùng một lúc, và có những loại chỉ cần tiêm một mũi có thể bộ phận được cả 3 bệnh như sởi, quai bị, Rubella. Ngược lại có những loại lại không tiêm được cùng 1 lúc. Để an toàn và hiệu quả lúc tiêm bộ phận cho con, tốt nhất chị nên tới các địa chỉ y tế dự phòng để được giải đáp trước khi tiêm.

Riêng đối với hai loại vaccin bộ phận hai bệnh quai bị và thủy đậu mà chị định tiêm cho cháu thì tuyệt đối không được tiêm cùng 1 lúc mà phải tiêm cách nhau ít nhất 1 tháng. Chị có thể đi tiêm phòng bệnh quai bị trước, sau đó một tháng tiêm phòng bệnh thủy đậu. Chị lưu ý chỉ cho con đi tiêm khi cháu hoàn toàn khỏe mạnh và tiêm ở những cơ sở y tế tin cậy.

BS. Nguyễn Thị Thu

Trẻ sơ sinh nhiễm lao

Theo thống kê tại khoa Nhi, BV. Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM chỉ trong một tháng đầu năm 2009, số trẻ em tới khám lao ở khoa đã nâng cao 10–20% so với cùng kỳ năm ngoái, với bình quân mỗi ngày khoảng 18 trường hợp. Trong đó lao màng não và lao phổi chiếm đến 80%. Đáng Quan tâm là trong số này đã có không ít trường hợp là trẻ sơ sinh, vốn được xem là những trường hợp “xưa nay hiếm” trong điều trị lao.

Nguồn lây từ mẹ

BS. Trần Ngọc Đường - Trưởng khoa Nhi, BV. Phạm Ngọc Thạch cho biết: “Chỉ tính riêng trong tháng 2/2009, ở khoa đã có tới 4 trường hợp trẻ sơ sinh mắc lao, trong khi trước đây, tìm 1 ca sơ sinh mắc lao rất hiếm. Đây là khiếu nại rất cần lưu tâm”. Cũng theo BS. Đường: nguồn lây của trẻ sơ sinh cũng nhiều nhưng chủ yếu là từ mẹ sang con. Nhiều thai phụ mắc bệnh khi đang mang thai hoặc có thể đã mắc bệnh trước đó nhưng không được phát hiện ra nên không điều trị ngay và phát triển thành nguồn lây cho con. Theo hồ sơ bệnh án lưu tại khoa Nhi BV. Phạm Ngọc Thạch, mới đây, khoa đã tiếp tiếp nhân trường hợp trẻ sơ sinh mới được 1 tuần tuổi đã mắc thể lao nặng là lao kê do lây từ mẹ. Mẹ của bé là sản phụ T.L không biết mình mắc bệnh lao phổi và lao màng não trong thời kỳ mang thai nên ngay khi vừa lọt lòng, bé đã có biểu hiện của triệu chứng nhiễm lao như: ho dai dẳng, sốt cao. Sau lúc nhập viện, cả 2 mẹ con đã được điều trị kịp thời và hiện đã xuất viện.

Các bác sĩ cũng khuyến cáo, có 1 số ít trường hợp, trẻ sơ sinh mắc bệnh lúc vừa lọt lòng, do tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây từ: phòng sinh, người thân... Ở thời kỳ này, hệ miễn dịch của trẻ rất yếu nên lúc trẻ mắc lao cần phải điều trị kịp thời, để tránh những biến chứng có thể xảy ra, thậm chí có thể dẫn đến tử vong ví dụ mắc các thể lao nặng như: lao kê, lao màng não.

Điều đáng ngại là trẻ sơ sinh mắc lao có biểu hiện bệnh không rõ ràng, thường hay quấy khóc nên dễ lầm tưởng là nhiễm trùng sơ sinh, ho nhiều, sốt cao, viêm đường hô hấp… Không chỉ thế, với những trẻ dưới 5 tuổi, nhất là trẻ sơ sinh lại không biết khạc đàm, không biết trả lời bác sĩ nên việc xác định vi trùng lao khó khăn. Tuy nhiên, trẻ em không phải là nguồn lây lao, vì thường tự nuốt đàm, không có thói quen khạc nhổ, thậm chí ngay cả đàm tại trẻ bị lao phổi cũng ít khi tìm thấy vi trùng lao.

Điều trị ngay khi mang thai

Theo khuyến cáo của các bác sĩ, trong lúc mang thai nếu phát hiện mắc lao, thai phụ phải tới ngay bác sĩ chuyên khoa để điều trị tốt nhất. Tuyệt đối không tự mua thuốc điều trị, vì rất hiểm nguy cho thai nhi và cả thai phụ ví dụ không điều trị đúng cách. Chỉ có các bác sĩ chuyên khoa sẽ biết dùng loại thuốc nào không ảnh hưởng tới thai nhi và thai phụ. Theo BS. Đường, có 1 số trường hợp do thai phụ không hiểu biết đầy đủ đã tự ý mua thuốc uống hoặc không chịu tới bác sĩ điều trị, vì sợ ảnh hưởng thai nhi mà chưa biết đây chính là nguyên do làm trẻ mắc lao bẩm sinh lúc vừa sinh ra, hoặc có thể dẫn tới những nguy cơ khác hiểm nguy cho thai nhi. Với trẻ mắc lao bẩm sinh, nếu được phát hiện kịp thời, việc điều trị dứt hẳn lao cho em bé chỉ mất thời gian trong vòng 1 tháng. Tuy nhiên, phụ huynh phải tuân thủ điều trị cho trẻ đúng theo sự chỉ định của thầy thuốc.

Với những trẻ bình thường, sau lúc sinh được 3 ngày, các trung tâm y tế sẽ tiêm vaccine BCG ngừa lao. Loại vaccine này sẽ giảm khả năng nhiễm lao và ngừa được phần to các dạng lao cấp tính nặng cho trẻ. Sau khoảng 1 tháng tiêm vaccine, nếu như không thấy sẹo có hiện tượng tại cơ delta (trên bắp tay), nên đưa trẻ đến các cửa hàng y tế để thử lại phản ứng lao tố. Nếu kết quả âm tính, chứng tỏ chưa có kháng thể ngừa lao, buộc phải chích lại vaccine BCG cho trẻ. Tuy nhiên, không phải lúc nào bắp tay trẻ không có sẹo cũng cho rằng chưa có kháng thể ngừa lao.

Với trường hợp sinh bị vỡ ối sớm, địa chỉ y tế thường không chích vaccine BCG ngay cho bé vì cơ thể bé yếu, dễ nhiễm trùng, nên vaccine khó đem lại hiệu quả tốt.

Ngoài ra, để nâng cao sức đề kháng cho trẻ em trước nguồn lây lao, cha mẹ tránh để trẻ suy dinh dưỡng. Phải cách ly trẻ khỏi nguồn lây nếu như gia đình, cộng đồng, trường học… có người bị lao. Quan trọng đặc biệt người lớn bị lao, không được khạc nhổ bừa bãi, tránh nguồn lây cho trẻ.

Trẻ nghi nhiễm lao thường có những triệu chứng như: ho, sốt kéo dài, sút cân hoặc không lên cân, ra mồ hôi trộm... Khi trẻ có những triệu chứng này cần đưa ngay đến cơ sở y tế khám và điều trị.

Phước Đạt

Biến chứng của nạo phá thai

Thống kê cho thấy nạo phá thai là nguyên do của 5% số ca tử vong tại sản phụ. Ngoài ra, các thủ thuật này dễ dẫn tới thủng tử cung, băng huyết, tổn thương cổ tử cung hoặc âm đạo, tai biến do dùng thuốc gây mê, gây tê. Các tai biến xuất hiện muộn hơn là sót thai, sót nhau, nhiễm trùng, chấn thương tâm lý (có người bị trầm cảm), nhiễm trùng gây viêm dính buồng tử cung dẫn đến vô sinh...

 Ảnh minh họa (ảnh: Gettyimages)

Những biến chứng của nạo phá thai

Phương pháp nạo phá thai đến nay đã có những thay thể lớn, dù thế vẫn không tránh được việc phải sử dụng dụng cụ nong bằng kim loại để nong rộng cổ tử cung; dùng que kim loại để dò hướng khoang tử cung và đo độ dài khoang tử cung; dùng ống hút bằng kim loại để hút phôi thai và đế cuống rốn; cuối cùng còn phải dùng muôi nạo bằng kim loại để nạo sạch khoang tử cung. Từ lúc Tiến hành đến lúc kết thúc, đều phải sử dụng dụng cụ bằng kim loại đưa vào đưa ra, tất nhiên có khả năng làm trầy xước tử cung, thậm chí có thể làm thủng cổ tử cung. Nếu như đế cuống rốn không lấy ra được nhanh, sẽ ảnh hưởng đến sự co bóp của tử cung, do đó có thể làm cho các mạch máu không liền lại, trong quá trình thủ thuật đó sẽ bị mất nhiều máu. Vả lại, nếu trước đó, đã có viêm bộ phận sinh dục như viêm âm đạo, viêm cổ tử cung chưa được chữa khỏi, hoặc trong quá trình thủ thuật không nghiêm chỉnh thực hiện vô trùng đúng với quy định, thì những dụng cụ đưa vào đưa ra rất dễ đưa vi khuẩn vào khoang tử cung gây nhiễm trùng. Ngoài ra, việc nạo hút thai còn có khả năng để lại di chứng, nhất là đối với các trường hợp đã qua nạo hút nhiều lần, nguy hại sẽ không nhỏ, có thể xuất hiện các trường hợp sau:

Khoang tử cung bị dính liền: Nếu nạo hút quá mức, lớp đáy màng trong tử cung bị tổn thương, mặt tổn thương đó có thể dính liền lại với nhau sẽ làm ảnh hưởng đến sự vận hành của tinh trùng và làm cho trứng đã thụ thai khó cắm vào, bởi thế hậu quả thường thấy đặc biệt không thụ thai được, nếu như có thì cũng dễ sảy thai, dẫn tới sự trảo đổi vào kinh nguyệt. Do mức độ tổn thương của niêm mạc tử cung, nếu tổn thương không nhiều, duy nhất một phòng nào đó ở khoang tử cung bị dính, thường chỉ làm giảm lượng kinh nguyệt hoặc gây ra xuất huyết không theo 1 quy tắc nào. Nếu tổn thương nghiêm trọng, mặt dính tại khoang tử cung rộng, sẽ gây bế kinh lâu dài. Nếu cổ tử cung bị dính, máu hành kinh không ra ngoài được mà chảy ngược vào bụng cũng sẽ gây ra bế kinh trong khoảng thời gian dài và đau bụng có tính chất chu kỳ.

Vô sinh có tính kế phát: Sau lúc nạo phá thai, không thụ thai lại được nữa, ngoài nguyên nhân dính khoang tử cung đã nói trên, còn có khả năng do ống dẫn trứng bị viêm. Khi làm thủ thuật bị viêm nhiễm, chứng viêm có thể từ nội mạc tử cung lan sang ống dẫn trứng, làm cho khoang ống dẫn trứng bị dính, gây ra tắc; cũng có khả năng do ống limpha và mạch máu tại vách tử cung khuếch tán ra tới tổ chức liên kết cạnh tử cung, làm cho xung quanh ống dẫn trứng viêm, miệng ống dẫn trứng dính về nhau và kẹt lại. Khi ống dẫn trứng tắc lại do miệng ống dẫn trứng bịt lại, đều cản trở tinh trùng và trứng gặp nhau, tất nhiên không thụ thai được.

Sảy thai hoặc đẻ non: Khi nạo phá thai, đặc biệt khi nạo, phải sử dụng tới kìm để lấy thai ra, nếu như miệng cổ tử cung bị dụng cụ nới rộng làm rách, thì sau đó, hễ có thai là sau 12 tuần sẽ kết thúc bằng sảy thai.

Nhau thai dính vào: Khi tử cung bị nạo quá sâu hoặc bị nạo hút nhiều lần, nội mạc tử cung bị tổn thương và teo lại. Đến lúc có thai tiếp sau đó, nội mạc tử cung do đã bị tổn thương và teo lại nên thường không thể lành lặn lại, phải bong ra lớp màng đáy để tiếp tiếp nhân phôi bào cấy vào, màng tử cung bong ra phát dục không tốt, lông tơ ở bên ngoài phôi bào sẽ cấy sâu vào, thậm chí còn xâm phạm tới lớp cơ bên dưới của màng tử cung. Nhau thai được hình thành như vậy khó hoặc căn bản không thể tự nhiên tách ra được khỏi thành tử cung. Kết quả là sau khi sinh con, bộ phận nhau thai dính liền hoặc cấy sâu vào thành tử cung sẽ không thể bong ra được, ảnh hưởng tới sự thu co tử cung, hốc hõm máu ở thành tử cung chỗ bóc tách ra đó mở rộng ra sẽ gây xuất huyết nhiều. Nếu nhau thai dính liền về thành tử cung còn có thể bóc ra, còn nếu nhau thai cấy sâu về thành tử cung thì duy nhất cách cắt bỏ tử cung mới khắc phục được.

Hiện có phần lớn biện pháp tránh thai, bạn hãy áp dụng nếu chưa muốn sinh con. Còn ví dụ lỡ có thai, nên đến cửa hàng y tế có chất lượng nạo phá thai an toàn để khắc phục càng sớm càng rất tốt nhằm hạn chế các tai biến, biến chứng.

Bệnh viện Phụ sản T.Ư vừa công bố kết quả nghiên cứu trên 154 trường hợp phá thai từ 17 - 22 tuần tuổi, trong năm 2008, kết quả cho thấy có tới 18% phá thai do tin tưởng lựa chọn giới tính. Đáng lưu ý là, hơn 31% các trường hợp phá thai là đối tượng học sinh, sinh viên. Hiện nay, Tổ chức Y tế Thế giới đánh mức giá Việt Nam là nước có tỉ lệ phá thai cao nhất châu Á và là một trong 5 nước có tỉ lệ phá thai nhiều nhất trên thế giới. Tính riêng trong  2 năm (2007 - 2008), ở BV Phụ sản TƯ có 11.826 trường hợp phá thai, trong đó 9,1% phá thai to.

Bác sĩ  Quang Dũng

Thoát vị rốn

Con tôi được 6 tháng tuổi. Từ lúc sinh ra rốn cháu đã lớn bằng quả cà pháo, nhìn vào thấy có cả nước và tia máu tím bầm. Xin hỏi, rốn lớn như thế có bình thường không? Có ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất và trí tuệ sau này của cháu không? Xin bác sĩ tư vấn giúp!

Nguyễn Quốc Kế(Hải Dương)

Thoát vị rốn (X).
Thoát vị rốn là 1 dị tật khá phổ biến ở trẻ nhỏ. Dị tật này hình thành từ khi rụng rốn, mà nguyên do là vòng rốn yếu nên đóng không kín, kèm theo giãn đường trắng giữa (đường giữa bụng, từ mỏm xương ức tới bờ trên xương mu) khiến rốn phồng lên, mềm; qua vòng xơ tại đáy rốn, quai ruột non hoặc mạc nối có thể chui qua đó gây tình trạng rốn lồi. Do có rất nhiều mức độ khác nhau, nên cách xử lý thoát vị rốn cũng khác nhau. Những trường hợp nhẹ (lỗ thoát vị có đường kính dưới 2cm, không làm trẻ đau đớn khi khóc, vận động), lỗ thoát vị có thể tự liền lại trong vài năm đầu. Đối với những trường hợp thoát vị lớn, các cơ quan trong khoang bụng có thể thoát ra nhiều và gây hiểm nguy (nghẹt ruột, dẫn tới hoại tử, nếu chậm được giải thoát có thể phải cắt bớt ruột, thậm chí tử vong) thì giải quyết càng sớm càng tốt bằng cách mổ để khâu kín chỗ hở, vừa khắc phục triệt để vừa phòng nghẹt ruột. Nếu thấy rốn lồi lớn lên 1 cách bất thường, có sự đánh tráo vào màu sắc, trẻ đau, khóc, nôn nhiều... thì nên đưa trẻ đi khám bệnh. Nếu sau 5 tuổi, vòng rốn vẫn không đóng hết thì có thể phẫu thuật để giải quyết khiếu nại thẩm mỹ.

ThS. Lê Hưng

Phòng tưa miệng ở trẻ em

Có cách nào phòng được bệnh tưa miệng ở trẻ không, thưa bác sĩ?

Vũ Thanh Hoàn(Lạng Sơn)

Tưa là một loại viêm miệng do nấm Candida albican ở trẻ còn bú đặc biệt trẻ đẻ non, và tại trẻ bị bệnh mạn tính làm giảm sức đề kháng. Ở trẻ bị bệnh, thường thấy trên niêm mạc lưỡi, trong má, lợi có những chấm trắng lan rộng thành những mảng trắng. Những mảng này dần dần ngả màu vàng rồi bong đi. Trẻ bú khó khăn vì đau miệng. Nếu tưa dai dẳng có thể lan xuống thực quản, ruột, về máu. Cần phải phát hiện sớm và điều trị tưa cho trẻ. Nguyên tắc điều trị là phải làm kiềm hóa môi trường miệng vì loại nấm này phát triển trong môi trường acid. Dùng dung dịch natri bicarbonat 5%, lấy gạc quấn xung quanh ngón tay, thấm dung dịch này và lau kỹ miệng cho trẻ sau mỗi bữa ăn. Sau khi lau miệng bôi dung dịch Xanh-metylen 5% hoặc bạc nitrat cho trẻ. Bôi miệng bằng mật ong cũng có kết quả.  Có thể làm 1 túi nhỏ bằng gạc thấm dung dịch natri bicarbonat cho trẻ mút như mút vú cao su ngày 3-4 lần. Có thể cho trẻ uống kháng sinh chống nấm loại nystatin theo chỉ định của bác sĩ. Bệnh dễ lây trong các nhà trẻ, bệnh viện, do đó phải vệ sinh miệng cho trẻ thật tốt. Vệ sinh sạch sẽ và không dùng chung thìa, cốc, bình sữa. Điều trị sớm bằng dung dịch natri bicarbonat ngay lúc thấy trẻ có dấu hiệu viêm miệng ban đỏ.

BS. Hồ Anh Thu

Có phải do nhiễm khuẩn âm đạo?

Khi âm đạo có không ít dịch, dịch giống như mủ, có mùi hôi và âm đạo đau khi thăm khám, thường đã bị bệnh lây truyền qua đường tình dục...

Vi khuẩn Chlamydia trên kính hiển vi. 

Xuất tiết ở âm đạo được coi là thông thường khi dịch đó có màu trắng hay như sữa, không mùi, không màu, không gây ngứa, rát và không làm khô cứng quần lót. Chính dịch âm đạo thông thường là phương một thể để cơ thể tự làm sạch âm đạo; lớp tế bào chết trên thành âm đạo cũng giúp cho tiến trình tự làm sạch. Lượng dịch âm đạo và màu sắc dịch đánh tráo theo từng thời kỳ trong chu kỳ kinh và trong từng giai đoạn của thai nghén.

Hầu hết phụ nữ đều có một lần trong đời bị viêm nhiễm âm đạo và 9/10 số đó là do nấm hay vi khuẩn, 1/10 là do trùng roi.

Có 6 thể viêm âm đạo thường gặp nhất là:

Viêm âm đạo do nấm: Thường gặp do một trong số các chủng nấm có tên là Candida gây ra. Nhiễm nấm làm cho dịch âm đạo đặc lại, dai dính, cũng có thể hơi lỏng nhưng không có mùi, âm hộ và niêm mạc âm đạo thường đỏ, rất ngứa.

Viêm âm đạo do loạn khuẩn: Do sự phát triển của nhiều loại vi khuẩn chứ không phải là nấm khi môi trường âm đạo bị mất cân bằng, nhưng nguyên do đích thực của sự phát triển quá mức các loại vi khuẩn vẫn chưa rõ. Viêm âm đạo này là thể hay gặp nhất tại phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Thường ra khí hư có màu trắng như sữa và mỏng, có mùi hôi như mùi cá ươn, càng rõ hơn sau quan hệ tình dục. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là nhiều phụ nữ bị bệnh nhưng lại không có triệu chứng gì, chỉ được chẩn đoán lúc đi khám phụ khoa theo thông lệ. Điều trị phức tạp hơn vì có nhiều loại vi khuẩn phối hợp.

Viêm âm đạo do trùng roi, do Chlamydia và do virut: Nếu do trùng roi: khí hư màu vàng, thường có mùi hôi, ngứa và đau ở âm đạo và âm hộ, đái buốt, có thể có cảm giác khó chịu tại bụng dưới và đau ở âm đạo khi giao hợp - những triệu chứng này có thể nâng cao lên sau giai đoạn hành kinh. Tuy nhiên cũng có rất nhiều phụ nữ không thấy có triệu chứng gì. Bệnh có thể lây nhiễm qua quan hệ tình dục. Để điều trị có hiệu quả, cần song song chữa cho cả bạn tình.

Thể viêm âm đạo do Chlamydia: Nhiều phụ nữ mắc nhưng hầu hết không biểu hiện triệu chứng gì, vì thế chẩn đoán khó khăn. Thể viêm âm đạo này đôi khi không gây ra khí hư, nhiều phụ nữ chỉ thấy ra máu chút ít, đặc biệt sau khi quan hệ tình dục, đau bụng dưới và vùng tiểu khung.

Viêm âm đạo do virut: Virus herpes I và II gây mụn rộp sinh dục với những tổn thương nhìn thấy ở âm hộ, âm đạo. Khi nhiễm loại virut này thường kèm theo stress hoặc những biến động vào cảm xúc. Một loại virut khác là HPV - virut gây u nhú tại người, cũng lây truyền do quan hệ tình dục, làm mọc ở âm hộ, âm đạo, vùng cổ tử cung (có khi cả trực tràng và bẹn) một hoặc nhiều u nhú không cuống, không đau.

Viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: Nguyên nhân thường gặp là do dị ứng với thuốc, do bơm rửa hoặc do thuốc diệt tinh trùng. Vùng da quanh âm đạo nhạy cảm với xà phòng, chất tẩy trắng và chất làm mềm vải. Phụ nữ tuổi mãn kinh hoặc bị cắt 2 buồng trứng có sự suy giảm hormon, bị khô hoặc "teo" âm đạo cũng có những triệu chứng của thể viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: đau, đặc biệt khi quan hệ tình dục, ngứa và nóng rát.

Mặc dầu mỗi nguyên do gây ra viêm này có thể có những triệu chứng khác nhau nhưng người phụ nữ không thuận tiện nhận ra mình mắc thể bệnh nào, trong thực tê, nhiều lúc những thầy thuốc có nhiều năm kinh nghiệm cũng có thể gặp khó khăn chẩn đoán do hơn tiện bệnh cùng kết hợp. Nhiều khi viêm âm đạo lại không biểu hiện triệu chứng gì.

Vì tính chất phức tạp của chẩn đoán các nhiễm khuẩn âm đạo, do vậy thầy thuốc không thể chỉ dựa trên sự diễn tả của người bệnh mà cần trực tiếp quan sát dịch, niêm mạc âm đạo và khám vùng tiểu khung, làm 1 số xét nghiệm.         

BS. Xuân Anh

Ăn kiêng sau sinh

Chế độ dinh dưỡng của bà mẹ trong suốt thời kỳ mang thai và cho con bú rất cần thiết vì có ảnh hưởng rất to đến sức khỏe của cả mẹ lẫn con. Do đó, mẹ cần Quan tâm đến sức khỏe của mình cùng với 1 chế độ dinh dưỡng khoa học để có thể có nguồn sữa chất lượng dành cho con, song song để chăm sóc bé rất tốt nhất.

Ăn kiêng theo quan niệm dân gian

Theo quan niệm dân gian, các bà mẹ sau sinh phải kiêng đa số các loại thức ăn vì nhiều lý do không giống như không ăn rau cải vì sau sẽ bị són tiểu, không ăn tôm, cua, cá, hải sản vì tanh và em bé sẽ bị tiêu chảy, mẹ hậu sản..., ăn cơm trắng với muối hay chỉ ăn chỉ có thịt lợn nạc kho mặn, kiêng ăn rau... Nhiều bà mẹ sau khi sinh không có đủ sữa cho con thường ăn cháo chân giò hầm kéo dài, hay ở nhiều vùng quê, sản phụ sau khi sinh ăn nghệ thường xuyên với quan niệm ăn nhiều nghệ sẽ có tác dụng bổ máu...

Có nên ăn kiêng sau sinh?

Theo các nhà chuyên môn, sau khi sinh là thời điểm người mẹ thiếu nhiều chất nhất vì đã mất phần nhiều năng lượng, máu và nước trong quy trình mang thai và sinh nở. Vì vậy, chỉ mất khoảng mang thai và cho con bú, các bà mẹ nên tin tưởng lựa chọn những thực phẩm có trị giá dinh dưỡng, hợp khẩu vị, thay đổi thức ăn thường xuyên để tăng cảm giác thèm ăn. Nên chọn thực phẩm tươi, sống, rau sạch; thức ăn cần phải nấu chín kỹ để tránh bị ngộ độc thực phẩm.

 Ảnh minh họa.

Nếu ăn nhiều chân giò hầm, cơ thể người mẹ sẽ bị thừa chất béo. Có những bà mẹ khi thấy cơ thể béo không dám tiếp tục bổ sung dinh dưỡng, điều này sẽ ảnh hưởng gần như tới sức khỏe của mẹ và con. Không ăn tôm, cua, cá, hải sản... cơ thể sẽ thiếu canxi. Thường xuyên ăn thịt kho mặn kéo dài người mẹ sẽ thấy chán ăn, ăn không ngon miệng...

Ăn kiêng thường làm giảm tính đa dạng của khẩu phần và có thể không hợp khẩu vị của người mẹ. Ở nhiều nơi, đặc biệt tại những vùng quê nghèo, do thực phẩm sẵn có ở địa phương thường ít đa dạng, nếu người mẹ lại ăn kiêng thì rất dễ bị thiếu chất dinh dưỡng, ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của sữa mẹ. Tuy nhiên, chỉ mất khoảng cho con bú, lúc ăn những thức ăn mới, lạ, cần ăn từ từ từng ít một, nếu thấy trẻ có những phản ứng khác lạ như tiêu chảy, dị ứng thì người mẹ nên ngừng ăn những thức ăn này để không ảnh hưởng tới sức khỏe của con.

Chế độ ăn khoa học cho phụ nữ sau sinh

Sau sinh, người mẹ nên có 1 chính sách dinh dưỡng khoa học bằng cách ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng và Quan tâm những điểm sau đây:

- Hạn chế đồ ăn rán, xào, đồ ngọt, thức ăn nhanh... Thay về đó hãy chọn thức ăn nhiều protein nhưng ít mỡ, nên sử dụng dầu thực vật trong chế biến thức ăn.

- Ăn nhiều rau xanh, trái cây để nâng cao cường lượng vitamin và khoáng chất cho cơ thể.

- Nên duy trì uống sữa dành cho bà mẹ mang thai và cho con bú để bảo đảm đủ chất mà không bị tăng cân, chọn loại sữa có bổ sung FOS (chất xơ) rất tốt cho hệ tiêu hóa, giúp tăng khả năng hấp thụ của mẹ, vì sau khi sinh nở, hệ tiêu hóa của người mẹ thường bị yếu, khó khăn hơn trong việc hấp thụ dinh dưỡng, đặc biệt là những chất khó tiêu như đạm.

- Ăn sáng vừa phải, đều đặn giúp người mẹ tránh tình trạng ăn uống quá độ trong ngày cũng là một cách giảm thiểu nâng cao cân.

Trong thời kỳ cho con bú cần tránh các loại chất kích thích có ảnh hưởng không tốt đến hệ thần kinh và sức khỏe của bé và giảm thiểu 1 vài loại gia vị như: ớt, tỏi, hành có thể qua sữa gây mùi khó chịu, trẻ dễ bỏ bú.

Bác sĩ Nguyễn Hồng

Loét miệng ở trẻ em

Loét miệng là 1 căn bệnh thường gặp cả ở người to và trẻ em nhưng lúc trẻ em mắc chứng loét miệng thì gây không ít khó khăn cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và nhất là là những căn nguyên gây loét miệng có khả năng gây biến chứng hiểm nguy cho trẻ.

Một số nguyên do gây loét miệng có thể gặp

 Tổn thương do virut Herpes tại miệng
Hay gặp nhất trong loét miệng là do nhiệt (theo Đông y), tức là trong cơ thể bị nóng phát ra nhiệt gây loét niêm mạc miệng. Loét miệng do nhiệt là loại nhẹ nhưng làm cho trẻ rất khó chịu, mệt mỏi, hay quấy khóc, khó ngủ và chảy nước miếng nhiều làm cho trẻ gầy sút do không ăn được hoặc ăn rất ít... Người ta cũng thấy có thể loét miệng do virut Herpes cũng có các triệu chứng như loét miệng do nhiệt. Người ta cũng thấy có thể loét niêm mạc miệng do virut thủy đậu. Ở trẻ em có một số bệnh cũng gây loét miệng, điển hình nhất là bệnh tay chân miệng. Trong bệnh tay chân miệng, ban đầu thường có sốt hoặc sốt nhẹ như trong bệnh thủy đậu, sưng miệng nổi bọng nước thường có kích thước khoảng từ 2-3mm hoặc bằng đầu đũa, màu đỏ hoặc xám hình bầu dục. Các nốt bọng nước thường có tại 2 bên mông, đầu gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân hoặc ở niêm mạc miệng. Đặc điểm của các nốt bọng nước trong bệnh tay chân miệng là ấn không đau. Các bọng nước có ở niêm mạc miệng lúc vỡ ra tạo thành các vết loét tại trong miệng. Bệnh tay chân miệng thường có kèm theo nôn, tiêu chảy ngay lúc nổi bọng nước. bệnh tay chân miệng cũng có thể gây nên một số biến chứng nguy hiểm như viêm cơ tim, viêm màng não - não...  Ở những cơ thể trẻ do nuôi dưỡng thiếu chất hoặc trẻ hấp thu kém (mặc dù gia đình đã cố gắng hết mức cho trẻ chế độ ăn tốt) gây nên  thiếu 1 số chất cần phải có như vitamin PP, vitamin C, vitamin B12, axít folic, chất sắt cũng có thể gây loét miệng... Loét miệng cũng có thể do chấn thương làm viêm, dập niêm mạc miệng, ví dụ  như  khi  bị ngã. Cũng có thể do ăn thức ăn nóng làm bỏng rồi loét niêm mạc miệng. Ngoài ra 1 số người bị rối loạn chức năng miễn dịch làm suy giảm miễn dịch như trong bệnh AIDS hoặc gặp stress liên tục cũng có thể bị loét miệng. Dù là nguyên do gì gây loét miệng thì cũng làm cho người bệnh (cả trẻ em và người lớn tuổi) đều đau, rát rất khó chịu, gầy sút, mất ngủ và hay cáu gắt.

Phòng bệnh loét miệng cho trẻ như thế nào?

Đối với các trường hợp loét miệng do nhiệt, do thiếu dinh dưỡng, do rối loạn hệ thống miễn dịch... thì cần cho trẻ ăn đúng chính sách dinh dưỡng phù hợp theo lứa tuổi. Hàng ngày nên vệ sinh miệng cho trẻ. Trẻ to cần đánh răng, súc miệng, họng hàng ngày. Cần cho trẻ ăn thêm rau, hoa quả tươi. Cần cho trẻ đi khám bệnh định kỳ để tiếp nhân được những lời khuyên hữu ích. Nên cho trẻ tiêm bộ phận bệnh thủy đậu đúng quy định.

 

Khi trẻ bị loét miệng nên làm gì?

        Loét miệng do nhiều nguyên nhân khác nhau, có loại đơn giản nhưng có loại nguyên nhân gây loét miệng và biến chứng nguy hiểm, vì vậy lúc trẻ bị loét miệng, nên cho trẻ đi khám bệnh để bác sĩ xác định nguyên nhân, trên địa chỉ đó có hướng điều trị. Loét miệng gây đau, rát bởi vậy dùng thuốc giảm đau cho trẻ là rất cần thiết nhưng sử dụng loại gì cho phù hợp với từng trẻ thì tùy tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ có chỉ định cụ thể. Trong những ngày trẻ bị bệnh loét miệng, nên cho trẻ ăn thức ăn lỏng, không nóng, không cay, không chua và hợp với khẩu vị của trẻ. Để đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ, nên cho trẻ ăn nhiều lần trong ngày vì mỗi lần trẻ chỉ ăn được ít một, thức ăn cần bảo đảm đủ chất dinh dưỡng. Ngoài ra có thể sử dụng mật ong rơ miệng hoặc chấm về các nốt loét cho trẻ để tránh các tác động kích thích làm trẻ đau. Nên cho trẻ uống thêm nước rau luộc, nước sinh tố hoa quả...

PGS.TS.BS. Bùi Khắc Hậu

Vì sao da bị rạn khi mang thai?

Cháu mang thai được 7 tháng, da bụng cháu rạn rất nhiều. Xin bác sĩ cho biết nguyên do và cách khắc phục?

Trần Thu Thảo (Hà Tĩnh)

Hầu hết khi mang thai, phụ nữ thường bị rạn da bụng, da bầu vú, đùi. Điều này không ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng lại làm mất thẩm mỹ sau sinh. Da của chúng ta có khả năng co giãn và đàn hồi rất tốt nhờ các sợi collagen và elastin. Khi mang thai, bụng, mông và ngực của phụ nữ thường nâng cao nhanh về kích thước nên da không giãn ra kịp, các sợi collagen và elastin bị đứt, gãy. Các vết đứt gãy đó diễn ra liên tiếp tạo thành các vết rạn, nứt. Ban đầu sẽ có màu đỏ nâu do các mạch máu dưới da bị tổn thương, sau lúc sinh, cơ thể hồi phục, các vết rạn sẽ chuyển thành sẹo màu trắng, đến khi này thì việc điều trị sẽ phát triển thành vô cùng khó khăn vì các vết rạn đã phát triển thành sẹo vĩnh viễn. Để khắc phục tình trạng trên, khi bắt đầu có thai, bạn nên bôi kem, mỡ tránh rạn da hiện có bán trên thị trường; mát-xa để nâng cao sự lưu thông máu; ăn, uống các thực phẩm có chứa vitamin C, E.

BS. Vũ Thu Dung

Mang thai khi lớn tuổi

Mang thai con so tại độ tuổi ngoài ba mươi, người phụ nữ dễ mắc các nguy cơ như: nâng cao huyết áp, tiền sản giật, đái tháo đường... Thai của họ cũng thường rơi về tình trạng nguy hiểm hơn so với những bà mẹ khác. Vì vậy, các thai phụ mang thai khi đã to tuổi cần hiểu biết và chuẩn bị sẵn sàng cho các nguy cơ lúc sinh nở.

Dị tật thai nhi: Một trong những biến chứng thường gặp nhất tại các thai phụ lớn tuổi đó là thai nhi mắc hội chứng Down. Nguyên nhân là do tuổi tác làm cho các thể nhiễm sắc tại trứng không tách biệt tốt, chúng dễ kết dính với nhau và khi tạo thành một tổ hợp nhiễm sắc thể nào đó thì có thể dẫn đến hội chứng Down và nhiều bệnh khác do có nhiễm sắc thể thừa. Ngoài ra, là các nguy cơ khác như các dị tật, bệnh bẩm sinh do sự biến đổi gen. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của y học ngày nay thì mọi bệnh tật, dị tật bẩm sinh đều có thể chẩn đoán từ rất sớm.

Tăng nguy cơ sảy thai: Theo các nhà chuyên môn, gần 15% phụ nữ bị sảy thai dưới 35 tuổi, tỷ lệ sảy nâng cao lên 20% ở độ tuổi 35-37; 25% tại độ tuổi 38-40 và 40% sau 40 tuổi. Vì tỷ lệ sảy thai cao ở những phụ nữ có tuổi, do vậy số bị sảy từ hai lần trở lên không phải là hiếm.

Tác động đến quá trình sinh nở: Phần lớn các thai phụ mang thai khi đã to tuổi đều rơi về tình trạng khó sinh và phải nhờ đến các biện pháp hộ sinh do tầng sinh môn còn chắc, sức rặn yếu hơn các sản phụ trẻ nên việc rặn không có hiệu quả cao và phải nhờ đến sự can thiệp từ bên ngoài của bác sĩ như: thúc chuyển dạ, gây tê ngoài màng cứng, kẹp forceps hay sinh chỉ huy và tỉ lệ sinh mổ cũng nâng cao cao khi bà mẹ lớn tuổi .

Tăng biến chứng: Với những phụ nữ sinh nở lần thứ nhất khi đã trên 30 tuổi, cần lưu ý liên tục đi khám thai định kỳ để phát hiện dị tật và những biến chứng có thể gặp. Bên cạnh đó nên đề phòng 1 số chứng bệnh hay gặp như: tăng huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, dễ có bệnh tại nhau thai (cơ quan đem đến ôxy và nuôi dưỡng thai), tiền sản giật...

Vì vậy, khi phụ nữ to tuổi mang thai cần phải đặc biệt theo dõi tới sức khỏe của mình và thai nhi. Cần đi khám định kỳ và theo đúng lịch hẹn để phát hiện sớm các khiếu nại như: tăng huyết áp, đái tháo đường, tiền sản giật. Việc chuẩn bị sức khỏe thật tốt trước và chỉ mất khoảng mang thai, sẽ giúp giảm được phần nào những nguy cơ nêu trên.    

Bác sĩ Hồng Hạnh