Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Dự phòng thiếu vitamin ở trẻ em

Thiếu hụt vitamin tại trẻ em trong những tháng đầu đời có liên quan tới tình trạng vitamin ở bà mẹ có thai và cho con bú. Nguyên nhân cốt yếu là do chính sách ăn của bà mẹ thiếu vitamin nên không mang đến đủ qua rau thai và sữa mẹ. Hậu quả của sự thiếu hụt vitamin tại trẻ nhỏ có ảnh hưởng tới phát triển thể chất, tâm vận động, suy giảm miễn dịch và hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn liên quan đến tử vong hoặc để lại di chứng.

Thiếu hụt vitamin A

Vitamin A hòa tan trong chất béo có vai trò thiết yếu đặc biệt với thị giác, biệt hóa các tế bào biểu mô, nâng cao trưởng và đáp ứng miễn dịch. Thiếu vitamin A cấp tính trầm trọng thường dẫn đến khô mắt mù lòa.

Thiếu vitamin A hay gặp tại trẻ ăn sữa ngoài, ăn bổ sung quá sớm, thức ăn bổ sung cốt yếu là ngũ cốc, nghèo thức ăn động vật, thiếu dầu mỡ và rau quả. Tuy nhiên ở những trẻ bú mẹ hoàn toàn trong những tháng đầu đời vẫn có nguy cơ thiếu vitamin A vì nồng độ vitamin A trong sữa mẹ thấp, hơn nữa trẻ mới đẻ dự trữ vitamin A trong gan ít.

Ở nước ta hiện nay thiếu vitamin A lâm sàng có tổn thương mắt rất hiếm gặp, nhưng thiếu vitamin A tiền lâm sàng vẫn còn phổ biến và tại mức độ nặng theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới.

Quáng gà là biểu hiện sớm của thiếu vitamin A, hiện tại được xếp vào loại thiếu vitamin A tiền lâm sàng.

Dự bộ phận thiếu vitamin A tiền lâm sàng

Cung cấp đủ vitamin A trong chính sách ăn cho cả mẹ và con. Vitamin A có nhiều trong thức ăn nguồn động vật (gan, cá, trứng, sữa) và b-caroten có trong thức ăn nguồn thực vật (rau xanh và củ quả có màu vàng đỏ). Chế độ ăn cần có dầu mỡ để hấp thu vitamin A. Cho trẻ bú sớm ngay sau đẻ để tiếp nhân được sữa non vì nồng độ vitamin A trong sữa mẹ cao nhất trong giai đoạn này.

Hiện nay, tại nước ta đang thực hiện cho trẻ từ 6-36 tháng tuổi uống vitamin A theo chiến dịch 1 năm 2 lần.

Trẻ từ 6-12 tháng tuổi uống 100.000 đơn vị; 13-36 tháng tuổi uống 200.000 đơn vị.

Phụ nữ sau đẻ trong vòng 1-2 tháng đầu cho uống một liều vitamin A 200.000 đơnvị.

Phụ nữ có thai không được uống vitamin A liều cao vì dễ gây quái thai.

Nếu trẻ có biểu hiện tổn thương khô mắt thì phải uống ngay vitamin A liều cao theo phác đồ điều trị.

 Rau quả là thực phẩm giàu vitamin.
Thiếu vitamin D

Vitamin D hòa tan trong chất béo có vai trò nhu yếu trong chuyển hóa và hấp thu canxi, phospho để cấu tạo khung xương.

Nguồn cung cấp vitamin D 80% là do cơ thể tổng hợp vitamin D từ chất tiền vitamin D dưới da dưới tác động quang hóa của tia cực tím ánh nắng mặt trời, phần còn lại khoảng 20% được đem tới từ thức ăn.

Khi thiếu vitamin D sẽ làm giảm hấp thu canxi, phospho ở ruột, cơ thể phải huy động canxi tại xương vào máu gây rối loạn quá trình vôi hóa tại xương gây loãng xương, còi xương ở trẻ em.

Còi xương có thể xuất hiện sớm ngay trong thời kỳ bào thai do người mẹ bị thiếu vitamin D, canxi trong thời gian mang thai và tập quán kiêng cữ giữ trẻ trong nhà hoặc trong buồng tối. Nguy cơ còi xương cao tại trẻ đẻ non, đẻ thấp cân (dưới 2.500g), trẻ ăn sữa ngoài, ăn bột sớm. Tuy nhiên trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ví dụ không được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời cũng bị còi xương vì nồng độ vitamin D trong sữa mẹ thấp (0,1mcg/100ml).

Đặc điểm của còi xương sớm là trẻ luôn trong tình trạng kích thích thần kinh - cơ, ngủ hay giật mình, cơn khóc kéo dài, khàn tiếng. Thở rít do mềm sụn thanh quản, các cơ co thắt làm cho trẻ nôn, nấc cụt, hay són phân và nước tiểu. Ở xương có biến dạng hộp sọ, xương sọ mềm, ấn lõm (dấu hiệu nhuyễn sọ). Thóp rộng, các đường rãnh khớp hở rộng, đầu dễ bị méo mó do tư thế nằm, đầu bẹt phía sau hoặc 1 bên rồi hình thành bướu thường là bướu trán và bướu đỉnh. Trương lực cơ giảm, phosphataza kiềm trong máu tăng. Trẻ có thể bị co giật do hạ canxi máu.

Dự bộ phận còi xương sớm do thiếu vitamin D: Trong thời gian mang thai người mẹ nên tắm nắng bằng cách đi dạo ngoài trời để tiếp tiếp nhân vitamin D, đồng thời ăn uống đủ chất, tăng cường thực phẩm giàu vitamin D và canxi. Phòng tại của trẻ cần thoáng mát có nhiều ánh sáng. Cho trẻ tắm nắng ngay từ tháng đầu sau đẻ bằng cách để hở 2 cẳng chân cho da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Đối với trẻ đẻ non, đẻ nhẹ cân thì từ tuần thứ 2 sau đẻ cho uống vitamin D 400 đơn vị/ngày, uống liên tục trong năm đầu, tránh dùng vitamin D liều cao trong dự bộ phận và điều trị vì dễ gây ngộ độc.

Thiếu hụt vitamin K

Vitamin K tan trong chất béo cấp thiết cho quá trình đông máu. Sự hấp thu vitamin K cần có mỡ, muối mật và dịch tụy.

Vitamin K có rất nhiều trong các loại rau xanh như cải bắp, cải xoong, su hào, xà lách... có ít hơn trong sữa, thịt, cá, trứng. Vi khuẩn đường ruột cũng có khả năng tổng hợp vitamin K nhưng chỉ đáp ứng 1 nửa nhu cầu. Nguyên nhân thiếu vitamin K ở trẻ nhỏ là do lượng vitamin K dự trữ thấp sau sinh, vi khuẩn đường ruột chưa phát triển, nồng độ vitamin K trong sữa mẹ thấp. Tình trạng bệnh lý gan mật rối loạn tiêu hóa... gây giảm hấp thu vitamin K.

Thiếu vitamin K gây xuất huyết não, màng não hay gặp ở trẻ từ 1-3 tháng được nuôi bằng sữa mẹ. Bệnh có hiện tượng đột ngột. Trẻ tự nhiên khóc thét, bỏ bú, da xanh niệm mạc nhợt, thiếu máu cấp tính. Co giật toàn thân hoặc cục bộ. Thóp căng phồng, lác mắt, sụp mi, giảm vận động nửa người. Thở không đều, có cơn ngừng thở ngắn, hôn mê dần và dễ tử vong hoặc để lại di chứng thần kinh. Nước não tủy có máu không đông, chụp cắt lớp vi tính sọ não sẽ xác định được vị trí chảy máu trong sọ.

Để dự bộ phận thiếu vitamin K gây xuất huyết não, màng não thì chế độ ăn của bà mẹ có thai và cho con bú cần có dầu mỡ, nâng cao cường thực phẩm giàu vitamin K. Cho trẻ bú mẹ bình thường. Biện pháp trước mắt là tiêm bộ phận vitamin K cho cả mẹ và con. Tiêm bắp vitamin K1 5mg cho bà mẹ trước sinh 2 tuần và trẻ ngay sau sinh tiêm vitamin K1 1mg hoặc uống 2mg và có thể tiêm nhắc lại liều thứ 2 sau 2-4 tuần.

Thiếu hụt vitamin B1

Vitamin B1 hay còn gọi là thiamin là vitamin tan trong nước. Thiamin được coi như là coenzym trong chuyển hóa glucid để sinh năng lượng và thiamin cũng có vai trò trong dẫn truyền thần kinh. Cơ tim, cơ bắp, não, thần kinh có nhu cầu vitamin B1 cao vì vậy khi thiếu vitamin B1 cấp thì có hiện tượng tổn thương cơ tim sớm và rối loạn dẫn truyền thần kinh.

Vitamin B1 có rất nhiều trong cám gạo, mầm lúa mì, men bia, đậu đỗ, thịt, các loại rau... Lượng vitamin B1 đưa vào cơ thể phụ thuộc nhiều vào chính sách ăn. Vi khuẩn đường ruột cũng có khả năng tổng hợp vitamin B1 nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên nhân thiếu vitamin B1 ở trẻ nhỏ là do bú sữa ở những bà mẹ thiếu vitamin B1 hoặc trẻ nuôi nhân tạo bằng chất bột quá nhiều. Thiếu vitamin B1 gây bệnh Beriberi. Beriberi ở trẻ nhỏ biểu hiện nặng ở thể tim cấp và thể thần kinh.

Để dự bộ phận thiếu vitamin B1 cho trẻ nhỏ thì điều thiết yếu là chính sách ăn của bà mẹ cần đa dạng, tăng cường thực phẩm có rất nhiều vitamin B1, nhất là dùng gạo có chất lượng tốt, không xay xát kỹ vì sẽ mất nhiều vitamin B1 trong cám gạo. Trẻ vẫn được nuôi bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý. Nếu vào thời vụ giáp hạt, sau úng lụt thì cả mẹ và con nên uống vitamin B1 dự phòng.

PGS. Đào Ngọc Diễn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét