Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Chăm sóc phụ nữ mang thai nhiễm HIV và con họ

HIV/AIDS đang là khiếu nại mang tính toàn cầu. Nhiều chương trình, chiến lược bộ phận chống HIV/AIDS đã được phát động và triển khai nhưng đại dịch HIV/AIDS vẫn có xu thế phát triển và lan rộng, đối tượng nhiễm HIV càng ngày càng trẻ hóa. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, có khoảng sắp 3.000 trẻ trong số gần 2 triệu trẻ mới sinh hằng năm có nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ. Tuy nhiên còn có 1 điều may mắn không phải đứa trẻ nào sinh ra từ mẹ nhiễm HIV cũng bị nhiễm HIV. Nếu biết dự phòng, chăm sóc và theo dõi đúng cách, số trẻ nhiễm HIV sinh ra từ mẹ có HIV sẽ giảm đi đáng kể.

Không phải tất cả các trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV đều bị nhiễm HIV

 Trẻ có mẹ nhiễm HIV ngay sau khi sinh cần được tắm ngay, sau đó được dùng thuốc kháng virut để dự phòng.

Đứa trẻ mới sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV được gọi là “trẻ có phơi nhiễm HIV” chứ không được khẳng định trẻ nhiễm HIV. Hiện nay, bình thường người ta chẩn đoán nhiễm HIV trẻ sinh ra từ những người mẹ nhiễm HIV khi trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên, có xét nghiệm kháng thể HIV dương tính 3 lần với 3 phương pháp khác nhau. Nếu trẻ có bú mẹ cần xét nghiệm sau khi trẻ ngừng bú mẹ hoàn toàn 6 tuần. Đối với những trẻ dưới 18 tháng chỉ chẩn đoán nhiễm HIV các xét nghiệm vào virut học dương tính (xét nghiệm tìm kháng nguyên p24, xét nghiệm PCR ADN hoặc PCR ARN) (PCR: Polymerase chain reaction).

Quản lý, theo dõi và chăm sóc phụ nữ nhiễm HIV khi mang thai

Phụ nữ nhiễm HIV lúc có thai cần phải quản lý, theo dõi và chăm sóc tại các cửa hàng sản khoa. Song song với việc đánh mức chi phí tình trạng thai nghén theo định kỳ, tình trạng lâm sàng nhiễm HIV cũng phải được theo dõi và đánh mức chi phí sát. Nếu thai phụ nhiễm HIV đang được dùng thuốc kháng virut (ARV) thì tiếp diễn được theo dõi và sử dụng thuốc theo hướng dẫn; nếu như chưa được dùng thuốc kháng virut, nhưng trong quá trình mang thai có đủ tiêu chuẩn dùng thuốc kháng virut thì được chỉ định dùng và theo dõi; trường hợp thai phụ nhiễm HIV chưa đủ tiêu chuẩn sử dụng thuốc kháng virut thì được dùng thuốc để dự bộ phận lây truyền virut từ mẹ sang con. Tùy thuộc về thời điểm xác định HIV dương tính về giai đoạn mấy của thai kỳ mà có các chỉ định dự bộ phận khác. Thông thường thai phụ sẽ được uống thuốc dự phòng từ lúc xác định HIV dương tính cho tới trước khi chuyển dạ và một liều lúc Tiến hành chuyển dạ. Khi chuyển dạ, cần hạn chế tối thiểu các chấn thương cho mẹ và cho trẻ như bảo đảm vô khuẩn tuyệt đối lúc đỡ đẻ, không rạch màng ối sớm, giảm thiểu các can thiệp gây chảy máu đường sinh dục trong thời gian sinh, tránh các thủ thuật can thiệp có thể gây tổn thương da cho thai nhi... Bên cạnh các chăm sóc về y tế thì những chăm sóc vào tinh thần và hỗ trợ tư vấn sẽ giúp cho người mẹ thêm kiến thức về đường lây truyền HIV/AIDS là trung tâm để thai phụ ổn định tâm lý và tuân thủ tốt các hướng dẫn điều trị, dự phòng.

Quản lý, theo dõi và chăm sóc trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV

Việc quản lý, theo dõi, chăm sóc rất tốt trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV bên cạnh tác dụng làm giảm đáng kể việc lây truyền virut từ mẹ sang con còn có ý nghĩa giúp các nhà thống kê, các nhà quản lý ước đoán được con số chuẩn xác tỷ lệ trẻ xác định nhiễm HIV sinh ra từ mẹ nhiễm HIV. Công việc này đòi hỏi sự phối hợp tốt giữa ngành sản khoa, lĩnh vực nhi khoa cùng sự chấp hành, tuân thủ tốt của người chăm sóc trẻ. Cần tư vấn cho người mẹ về nguy cơ lây truyền HIV qua sữa mẹ từ đó khuyến khích nuôi trẻ bằng thức ăn thay thế hoàn toàn ngay sau đẻ. Trong trường hợp không thể nuôi hoàn toàn bằng thức ăn thay thế, giải đáp cho người mẹ chỉ cho ăn bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 4-6 tháng đầu. Người mẹ sau lúc sinh tiếp tục được theo dõi, xem xét chỉ định dùng thuốc kháng virut, dự bộ phận các nhiễm trùng cơ hội và dự phòng cho cộng đồng như những người nhiễm HIV khác. Trẻ ngay sau khi sinh cần phải tắm ngay, sau đó được dùng thuốc kháng virut để dự bộ phận tùy từng loại thuốc có thể sử dụng trong 48 giờ đầu hoặc cho tới 1 tuần tuổi. Tiếp sau đó, trẻ cần phải theo dõi và xét nghiệm để khẳng định có nhiễm HIV hay không, đồng thời dự phòng các nhiễm trùng cơ hội có thể diễn ra và xem xét chỉ định điều trị thuốc kháng virut nếu trẻ có đủ tiêu chuẩn được sử dụng thuốc. Những trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV chưa chẩn đoán xác định nhiễm HIV không có những lưu ý đặc biệt vào tiêm chủng so với trẻ bình thường, ngoại trừ cần lưu ý theo dõi để phát hiện các biến chứng sau lúc tiêm BCG (vaccin phòng lao). Trong trường hợp trẻ đã được xác định nhiễm HIV và có các biểu hiện lâm sàng của AIDS các giai đoạn thì tiêm chủng theo sự hướng dẫn của các bác sĩ chuyên khoa.

ThS. Lê Hà Kiên

0 nhận xét:

Đăng nhận xét